/ Trao đổi - Ý kiến
/ Hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự

Hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự

13/12/2021 15:38 |

(LSVN) - Vai trò, vị trí của người bào chữa trong tố tụng hình sự ngày càng trở nên quan trọng trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, trong việc bảo đảm pháp luật được thực thi đúng, đủ, hiệu quả, phòng, chống oan sai. Do đó, việc bảo đảm các quyền của người bào chữa có ý nghĩa to lớn. Mặc dù vậy, cả trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện, việc này lại thể hiện nhiều bất cập, dẫn đến người bào chữa không thể thực hiện đầy đủ các quyền của mình khi tham gia tố tụng.

Người bào chữa có thể là Luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân và người đại diện của người bị buộc tội. Trong đó, Luật sư là chủ thể có nhiều khác biệt và cũng là nhóm người bào chữa có vị trí, vai trò và hiệu quả bào chữa tốt nhất. Người bào chữa thông qua hoạt động bào chữa của mình, đưa ra lời lẽ, lập luận, chứng cứ, tài liệu giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hiểu được toàn diện bản chất của sự việc. Do đó, bảo đảm quyền của người bào chữa chính là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp luật định, tạo điều kiện cần thiết thuận lợi cho người bào chữa thực hiện đầy đủ, nhanh chóng, toàn diện các quyền luật định của mình.

Ảnh minh họa.

1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền của người bào chữa

Quy định các quyền của người bào chữa:

Theo Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, người bào chữa có rất nhiều quyền như: Gặp, hỏi người bị buộc tội; Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;...

Từ đó có thể thấy, BLTTHS 2015 đã quy định có sự thay đổi theo hướng mở rộng quyền của người bào chữa so với BLTTHS 2003. Cụ thể, ngoài cơ quan tiến hành tố tụng, người bào chữa cũng là chủ thể có quyền thu thập chứng cứ. BLTTHS 2015 quy định việc người bào chữa có mặt ở các hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết và hoạt động điều tra khác là quyền của người bào chữa và quyền này không lệ thuộc vào sự đồng ý của Điều tra viên như trong BLTTHS 2003. Chưa hết, quyền hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can sau khi kết thúc việc lấy lời khai của người có thẩm quyền cũng được ghi nhận cụ thể. Và để thực hiện các quyền đó, người bào chữa đòi hỏi phải “được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định”.

Ngoài ra, một số quyền mới của người bào chữa là: “Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”, “Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”...

Ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự, đây là giai đoạn thể hiện rõ nét nhất vai trò, vị trí của người bào chữa. Thông qua hoạt động tranh tụng, người bào chữa thể hiện kết quả của cả quá trình từ khi tham gia bào chữa và cũng là giai đoạn có ý nghĩa quyết định. Theo đó, người bào chữa có quyền: Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này. Để bảo đảm những quyền này, pháp luật tạo ra những cơ chế bảo đảm bằng các quy định mang tính nguyên tắc, thủ tục phải tiến hành hay trực tiếp quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng mà nhất là Tòa án.

Trách nhiệm bảo đảm quyền cho người bào chữa của Tòa án, Viện Kiểm sát, Cơ quan điều tra:

Thứ nhất, đối với Tòa án: Trước tiên, Tòa án bảo đảm quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, định giá, phiên dịch, dịch thuật, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế. Theo đó, BLTTHS quy định việc giải quyết đề nghị thay đổi và người bào chữa được phép đề nghị thay đổi và nêu rõ lý do. Một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, dịch thuật, người giám định, định giá, người chứng kiến. Nếu có lý do cho rằng họ không vô tư thì sẽ bị thay đổi.

Tiếp theo, Tòa án bảo đảm quyền được thu thập, đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu, được đọc, ghi chép, sao chụp nhưng tài liệu trong hồ sơ vụ án. Theo Điều 305 BLTTHS, Chủ tọa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu không. Nếu có người vắng mặt thì phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không. Việc thu thập chứng cứ, tài liệu là yêu cầu cơ bản của người bào chữa nhằm thực hiện tốt chức năng của mình. Song song với đó là việc được tiếp cận các tài liệu, chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh chức năng bào chữa, người bào chữa còn có trách nhiệm tuân thủ pháp luật, do đó, việc tiếp xúc các chứng cứ, tài liệu do các cơ quan chức năng thu thập là không thể thiếu. 

Tất cả những quyền nêu trên chỉ thật sự có ý nghĩa nêu quyền “tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa” được bảo đảm. Xét hỏi và tranh tụng là những hoạt động trong trình tự xét xử, người bào chữa có quyền đưa ra câu hỏi, đưa ra các lập luận, ý kiến phản biện. Để bảo đảm quyền này, BLTTHS 2015 quy định rõ “người bào chữa có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu làm rõ sự thật khách quan”. Cuối cùng, người bào chữa được bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.

Thứ hai, đối với Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát: Trước hết, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát phải bảo đảm sự có mặt của người bào chữa khi tiến hành các hoạt động tố tụng. Theo đó, phải báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp cư trú cùng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 48 giờ đối với trường hợp khác. Đây là quy định tối thiểu, căn cứ thực tế, các cơ quan này có thể thông báo sớm hơn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người bào chữa. Thực hiện đăng ký bào chữa, bảo đảm người bào chữa được tiếp xúc với người bị buộc tội. Tiếp theo, bảo đảm cho người bào chữa thực hiện thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, đồng thời đánh giá, nhận xét về các chứng cứ, tài liệu đó.

Ngoài ra, các cơ quan, người tiến hành tố tụng còn có trách nhiệm bảo đảm nhiều quyền khác của người bào chữa. Ở đây, tác giả chỉ liệt kê một số trách nhiệm bảo đảm cơ bản và trên thực tế dễ bị xâm phạm.

Giám sát và xử lý hành vi xâm phạm quyền người bào chữa:

Về kiểm tra, giám sát, Điều 33 BLTTHS 2015 quy định: 

“Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật”.

Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật. Về xử lý vi phạm, Điều 91 Luật Luật sư 2006 quy định: “Người có chức vụ, quyền hạn mà có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư hoặc cản trở Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư thực hiện quyền, nghĩa vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.

Những bất cập trong quy định về bảo đảm quyền của người bào chữa:

Thứ nhất, quyền thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào chữa chưa được quy định triệt để. Mặc dù đã được quy định là “quyền” nhưng người bào chữa tiến hành các quyền này khá thụ động. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không nhiệt tình, có hành vi che giấu, không cung cấp cho người bào chữa. Bởi vì hiện nay pháp luật không có quy định về trách nhiệm của các chủ thể khi người bào chữa thu thập chứng cứ, tài liệu.

Thứ hai, quyền “gặp, hỏi người bị buộc tội” còn được quy định chung chung, chưa cụ thể. Theo đó, thời gian, thời hạn, địa điểm, cơ chế giám sát việc gặp, trao đổi giữa người bào chữa và người bị buộc tội chưa được quy định, dẫn đến việc lạm dụng, gây khó dễ từ phía cơ quan chức năng. Đồng thời, việc gặp riêng, bảo đảm bí mật trong nội dung trao đổi cũng chưa tốt. Theo đó, cần quy định người bào chữa được phép gặp riêng người bị buộc tội bởi lẽ điều này có thể bảo đảm bí mật, chất lượng của việc bào chữa và đồng thời, các hành vi trái pháp luật của người bào chữa cũng đã có chế tài xử lý, họ phải biết mình được phép làm gì, không được phép làm gì, luật cấm điều gì để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp.

Thứ ba, có quy định quyền, cơ chế bảo đảm nhưng thiếu cơ chế xử lý vi phạm. Các quyền, trách nhiệm của các chủ thể đã được quy định, nhưng việc xử lý hành vi xâm phạm lại chưa cụ thể, rõ ràng. Điều này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền của người bào chữa chưa được bảo đảm tốt như hiện nay. Trong nhiều trường hợp, nếu vượt quá phạm vi hay khả năng, người bào chữa cũng chỉ có quyền “đề nghị” cơ quan chức năng và điều này phụ thuộc vào sự chủ quan của các cơ quan đó.

2. Thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bào chữa

Với sự đổi mới, quá trình cải cách tư pháp đã mang đến nhiều thuận lợi cho người bào chữa thực hiện quyền của mình. Mức độ bảo đảm các quyền cũng được nâng lên đáng kể. Các cơ quan, người tiến hành tố tụng đã tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia và thực hiện các quyền của mình. Đặc biệt, thực tiễn ở các Tòa án đã thực sự coi trọng vai trò và sự hiện diện của người bào chữa trong tố tụng. Thủ tục đăng ký bào chữa đơn giản, nhanh gọn, sao chép, đọc hồ sơ theo yêu cầu, người bào chữa có thể lựa chọn chụp hoặc photo chứng cứ, tài liệu, tiếp nhận đầy đủ các chứng cứ, yêu cầu và giải quyết xác đáng các yêu cầu đó.

Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều rào cản, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền của người bào chữa, có thể kể đến một số hạn chế cơ bản như: Quyền thu thập, tiếp cận, đánh giá chứng cứ, tài liệu còn khó khăn; Quyền gặp người bị buộc tội, tham gia các hoạt động tố tụng chưa đầy đủ, triệt để, còn tình trạng thông báo chậm, bất ngờ, tiến hành không thông báo, không có mặt người bào chữa; Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa bị hạn chế, giới hạn thời gian, cắt giảm tranh luận, thậm chí không cho tiếp tục hỏi, tranh luận…

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng nhìn chung có hai nguyên nhân chính như sau: Thứ nhất, nhận thức, suy nghĩ của một bộ phận người tiến hành tố tụng vẫn chưa thực sự coi trọng vị trí, vai trò của người của người bào chữa. Thứ hai, quy định của pháp luật chưa thực sự hoàn thiện. Để nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bào chữa, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp, trong đó, yêu cầu trước hết là hoàn thiện hệ thống pháp luật đủ phù hợp, đủ chi tiết, đủ toàn diện trong vấn đề này.

Theo đó, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật như sau:

Thứ nhất, về quyền của người bào chữa: Cần bổ sung những quy định cần thiết để khắc phục những điểm bất hợp lý, bảo đảm quy định được phù hợp và khả thi. Rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật, cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Hoàn thiện cơ chế bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng nói chung, người bào chữa nói riêng. Trong đó, tập trung một số đề xuất cụ thể như sau:

- Quyền hỏi người bị buộc tội: Điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “gặp, hỏi người bị buộc tội” nhưng điểm b lại quy định “nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đồng ý thì được hỏi. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi”. Hai quy định này vừa trùng lặp, vừa mâu thuẫn với nhau. Một mặt, khẳng định việc hỏi là quyền của người bào chữa, mặt khác lại quy định người bào chữa “có thể hỏi” và cần sự đồng ý của người tiến hành tố tụng. Như vậy là không bảo đảm. Theo đó, cần quy định rõ: “Người bào chữa có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội. Trong các buổi lấy lời khai người bị bắt, tạm giữ, hỏi cung bị can, người bào chữa được hỏi khi người tiến hành tố tụng đã hỏi xong”. Có như vậy, mới khắc chế được tình trạng gây khó dễ, cản trở việc gặp, hỏi của người bào chữa.

- Quyền tham gia hoạt động tố tụng: BLTTHS quy định người bào chữa được tham gia rất nhiều hoạt động tố tụng khác nhau và cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành thông báo về thời gian, địa điểm trước một thời gian nhất định. Tuy nhiên, BLTTHS mới chỉ quy định trường hợp người bào chữa vắng mặt tại phiên tòa vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa (trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa). Vậy, các hoạt động khác thì sao? Để bảo đảm quyền cũng như hiệu quả bào chữa, tôi cho rằng cần quy định trong một số hoạt động không mang tính cấp thiết như hỏi cung, lấy lời khai, đối chứng… cũng cần có quy định tương tự. 

- Quyền xem biên bản về hoạt động có sự tham gia của mình, quyết định có liên quan đến người mà mình bào chữa: Quy định này cũng chưa thật sự hợp lý và ở một góc độ nhất định đang ảnh hưởng đến việc bào chữa. Bởi vì, sự vắng mặt của người bào chữa trong các hoạt động tố tụng là rất phổ biến mặc dù đã được thông báo về thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, người bào chữa vẫn cần được xem biên bản của hoạt động đó nhằm phục vụ cho việc bào chữa. Thông qua việc xem xét, người bào chữa có thể phát hiện các sai sót, các điểm bất hợp lý và các chứng cứ khác. Do đó, cần quy định “người bào chữa có quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng mà theo quy định người bào chữa được phép tham gia…”.

- Quyền đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, người tham gia tố tụng khác: Theo đó, người bào chữa có quyền đề nghị và đề nghị này sẽ được xem xét có được chấp nhận hay không. Quy định này là hợp lý, tuy nhiên hiện nay chưa có cơ chế bảo đảm khách quan trong vấn đề này. Việc quyết định vẫn còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của Thẩm phán và HĐXX. Do đó, cần phải đưa ra cơ chế, có thể là hướng dẫn chi tiết “khi nào thì phải triệu tập thêm người làm chứng”, chẳng hạn: “Người làm chứng là người chứng kiến phần lớn vụ việc, có lời khai chưa rõ ràng, chưa thống nhất với các lời khai khác… nghiêm cấm việc cố tình không triệu tập người làm chứng có lời khai có lợi cho bị cáo…”.

Thứ hai, về nghĩa vụ của các cơ quan, người tiến hành tố tụng: Theo đó, cần quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa bằng cách thêm quy định “Bảo đảm cho người bào chữa thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình” trong các Điều về nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng.

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế giám sát và chế độ trách nhiệm đối với vi phạm quyền người bào chữa: Cần luật hóa các văn bản hướng dẫn về chế tài xử lý đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng trong trường hợp “cản trở” người bào chữa thực hiện quyền và nghĩa vụ. Cần có chế tài đủ mạnh bảo đảm tính nghiêm minh trong vấn đề này. Theo đó, hành vi cản trở thực hiện quyền của người bào chữa nhìn chung đều ảnh hưởng đến kết quả bào chữa, từ đó ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Do đó, cần xem đây là hành vi “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” và người có hành vi này phải chịu xử lý. Tùy tính chất, mức độ và hậu quả mà có thể bị xử lý hành chính, kỷ luật và xem xét quy định chế tài hình sự đối với hành vi này.

Như vậy, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của người bào chữa đối với người bị buộc tội, đối với việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý thì cần tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến việc bảo đảm quyền của người bào chữa.

VĂN LINH

Tòa án Quân sự khu vực hải quân

Một số vấn đề về áp dụng án lệ, tập quán và lẽ công bằng ở Việt Nam hiện nay

 

Lê Minh Hoàng