(LSO) - Áp lực đòi nợ và sự liều lĩnh của một số người khiến việc đòi nợ trở thành mối đe dọa cho xã hội, gây mất ổn định xã hội. Việc dùng vũ lực, đe dọa, uy hiếp con nợ để đòi nợ diễn ra nhiều trong đời sống xã hội hiện nay.
Vi phạm pháp luật khi đòi nợ kiểu “xã hội đen”
Trong các quan hệ dânsự, kinh tế thì các giao dịch vay tài sản là tương đối phổ biến. Quan hệ vaytài sản có thể giữa các cá nhân, tổ chức với nhau hoặc là quan hệ tín dụng giữatổ chức tín dụng với tổ chức, cá nhân khác. Việc vay nợ có thể bằng tài sản thếchấp hoặc không thế chấp (tín chấp).
Theo đó, không phảikhi nào mối quan hệ giữa bên cho vay và bên vay cũng êm đềm, tốt đẹp. Nếu việcsử dụng tiền vay đúng mục đích, có hiệu quả, việc trả nợ gốc lãi đầy đủ theothỏa thuận của các bên thì quan hệ giữa hai bên gắn bó, trở thành đối tác tincậy, gắn bó với nhau để cùng phát triển.
Nếu như bên đi vay gặp khó khăn, thua lỗ thì mối quan hệ hai bên sẽ vào tư thế đối đầu, chuyển tranh chấp, cãi vã, xung đột, thậm chí dùng vũ lực với nhau có thể xảy ra... Nếu những tranh chấp dân sự, kinh tế hai bên không giải quyết được thì có thể chuyển vụ việc đến tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, áp lực đòinợ và sự liều lĩnh của một số người khiến việc đòi nợ trở thành mối đe dọa choxã hội, gây mất ổn định xã hội. Việc dùng vũ lực, đe dọa, uy hiếp con nợ để đòinợ diễn ra nhiều trong đời sống xã hội hiện nay. Dưới góc độ pháp lý, đây làhành vi trái pháp luật, đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.Hành vi đòi nợ trái pháp luật này không chỉ do các nhóm côn đồ, đòi nợ theokiểu “xã hội đen” mà còn lan sang cả một số công ty, các tổ chức thu hồi nợ,các khoản nợ của ngân hàng khiến nhiều người dân bức xúc. Đã đến lúc chínhquyền các địa phương không chỉ dẹp loạn tín dụng đen, dẹp loạn đòi nợ thuê màcon phải dẹp loạn đòi nợ tín dụng ngân hàng bằng những tổ chức có vũ trang,trái pháp luật.
Theo quy định của phápluật thì quan hệ tín dụng là quan hệ dân sự, kinh tế. Theo đó, khi giao dịch đãđược xác lập thì các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụcủa mình trong các hợp đồng đã ký kết (ở đây là hợp đồng tín dụng, hợp đồng thếchấp). Khi đến hạn trả nợ mà bên vay tiền không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thựchiện nghĩa vụ trả nợ nhưng không đúng, không đầy đủ thì bên ngân hàng có thểyêu cầu xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Hai bên có thể thỏa thuận việc bàngiao tài sản để tổ chức bán đấu giá, lấy tiền trả nợ. Tuy nhiên, thỏa thuận nàychỉ có thể được thực hiện khi hai bên đồng thuận và không có tranh chấp.
Căn cứ xử lý
Thời gian gần đây,việc cho vay tín dụng có nhiều thiếu sót, thẩm tra xác minh điều kiện vay khôngchính xác. Thêm vào đó, là khó khăn chung của doanh nghiệp nên tình trạng nợxấu gia tăng đột biến. Trước tình hình đó, ngân hàng nhà nước và các tổ chứctín dụng đã “kêu cứu” đến Phính phủ và Quốc hội để có các giải pháp giải quyếtvấn đề nợ xấu cho các tổ chức tín dụng.
Quốc hội đã ban hànhNghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm thu hồi nợ xấu củacác tổ chức tín dụng.
Theo đó, Nghị quyếtnày cũng quy định nguyên tắc xử lý nợ xấu phải:
- Bảo đảm công khai,minh bạch; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức tín dụng, chinhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức,cá nhân có liên quan;
- Phù hợp với cơ chếthị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền vàgiữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống;
-Không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu;
-Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu vàtrong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức tín dụng, chinhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợxấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật; giá bán phù hợp với giáthị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ.
Đặc biệt, Điều 7 củaNghị quyết này quy định về việc tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức thu hồi nợtín dụng có thể thực hiện biện pháp thu hồi tài sản đảm bảo. Theo đó, bên bảođảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảmkèm theo đầy đủ giấy tờ, hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm cho tổ chức tíndụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu để xử lýtheo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc trong văn bản khác (sau đây gọi làhợp đồng bảo đảm) và quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm.
Trường hợp bên bảođảm, bên giữ tài sản không giao tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánhngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu để xử lý thì tổ chức tíndụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được thugiữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều này.
Tổ chức tín dụng, chinhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tàisản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoảnnợ xấu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự;
- Tại hợp đồng bảo đảmcó thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngânhàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ratrường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật;
- Giao dịch bảo đảmhoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật;
- Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền; không đang bị tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức tín dụng,chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu đã hoàn thànhnghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều này.
Chậm nhất là 15 ngàytrước ngày tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản, tổ chức tín dụng,chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thực hiện côngkhai thông tin về thời gian, địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảmđược thu giữ, lý do thu giữ theo quy định sau đây:
- Đăng tải thông tintrên trang thông tin điện tử của mình;
- Gửi văn bản thôngbáo cho UBND cấp xã và cơ quan Công an nơi có tài sản bảo đảm;
- Niêm yết văn bảnthông báo tại trụ sở UBND cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồngbảo đảm và trụ sở UBND cấp xã nơi có tài sản bảo đảm;
- Thông báo cho bênbảo đảm bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảmtheo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.
Tổ chức tín dụng, chinhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thực hiện công khaithông tin về việc tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là động sản theo quy địnhsau đây:
- Đăng tải thông tintrên trang thông tin điện tử của mình và thông báo về việc thực hiện quyền thugiữ tài sản bảo đảm cho UBND cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợpđồng bảo đảm trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm;
- Thông báo chobên bảo đảm bằng văn bản trước thời điểm thực hiện quyền thu giữ tài sản bảođảm bằng cách gửi theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảmtheo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.
Chính quyền địa phươngcác cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vichức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trậttự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của tổchức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu.Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổchức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu,đại diện UBND cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiếnvà ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.
Tổ chức tín dụng chỉđược ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tàisản thuộc tổ chức tín dụng đó; tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu chỉ được ủy quyềnthu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ, công ty quản lý nợ và khaithác tài sản thuộc tổ chức tín dụng bán nợ.
Tổ chức tín dụng, chinhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, tổ chức được ủyquyền thu giữ tài sản bảo đảm không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấmcủa pháp luật trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.
Bộ Công an có tráchnhiệm chỉ đạo cơ quan Công an các cấp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trậttự khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lýnợ xấu thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy địnhtại Nghị quyết này.
Như vậy, có thể thấyrằng Nghị quyết này là một cơ sở pháp lý để tháo gỡ khó khăn cho các tổ chứctín dụng trong việc thu hồi nợ. Tuy nhiên, việc thu giữ tài sản phải tuân thủcác quy định của Nghị quyết này và các quy định khác của pháp luật. Thu giữ tàisản chỉ được thực hiện khi hai bên có thỏa thuận trước đó, đủ điều kiện để thugiữ theo quy định của pháp luật và việc thu giữ tài sản phải có sự tham gia,giám sát của chính quyền địa phương và cơ quan Công an. Trong trường hợp cáccông ty quản lý nợ của ngân hàng tự ý sử dụng vũ lực đe dọa dùng vũ lực hoặc cócác hành vi vi phạm pháp luật khác để buộc tổ chức, cá nhân phải bàn giao tàisản thế chấp trái quy định của pháp luật thì đây là hành vi vi phạm pháp luậtcó dấu hiệu của các tội danh như tội “Cưỡng đoạt tài sản”, “Cướp tài sản”, “Xâmphạm chỗ ở của công dân”...
Bởi vậy, tùy từng vụviệc cụ thể mà người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứutrách nhiệm hình sự. Chính quyền địa phương và cơ quan Công an phải giám sátchặt chẽ việc thu giữ tài sản theo Nghị quyết này để tránh trường hợp một số tổchức, cá nhân lợi dụng, lạm dụng việc thu giữ tài sản để xâm phạm trái phép đếnchỗ ở của công dân, xâm hại đến tài sản, sức khỏe của công dân. Trong trườnghợp hợp đồng tín dụng, thế chấp không đủ điều kiện để áp dụng việc thu giữ tàisản hoặc có tranh chấp xảy ra thì các bên phải chờ phán quyết của tòa án theoquy định của pháp luật.
Việc những nhóm người có vũ trang nhân danh các công ty quản lý nợ của ngân hàng đến đánh đuổi người dân ra khỏi nhà để lấy nhà gây mất an ninh trật tự, bức xúc trong dư luận thì phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Những hành vi như vậy có dấu hiệu tội phạm và gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, không đúng với tinh thần Nghị quyết của Quốc hội cũng như các văn bản quy phạm pháp luật.
Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG