/ Kinh nghiệm - Thực tiễn
/ Kinh nghiệm giữ gìn tiếng Việt tại Việt Nam xa xưa: Bài học cho thời đại công nghệ mới

Kinh nghiệm giữ gìn tiếng Việt tại Việt Nam xa xưa: Bài học cho thời đại công nghệ mới

15/05/2025 18:26 |1 tháng trước

(LSVN) - Tiếng Việt không chỉ là phương tiện giao tiếp, mà còn là kho tàng chứa đựng lịch sử, văn hóa và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, tiếng Việt đã trải qua nhiều biến động lịch sử nhưng vẫn luôn được bảo vệ và phát huy. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và công nghệ phát triển mạnh mẽ hiện nay, việc học hỏi kinh nghiệm gìn giữ tiếng Việt từ cha ông là điều vô cùng cần thiết để bảo vệ bản sắc ngôn ngữ trong kỷ nguyên số. Bài viết dưới đây sẽ phân tích kinh nghiệm giữ gìn tiếng Việt trong quá khứ và gợi mở bài học cho thời đại công nghệ mới.

1. Kinh nghiệm giữ gìn tiếng Việt trong quá khứ

Lịch sử phát triển của tiếng Việt không chỉ là hành trình ngôn ngữ, mà còn là hành trình gìn giữ bản sắc dân tộc. Trong bối cảnh bị đô hộ, đồng hóa và tiếp xúc mạnh mẽ với các yếu tố ngoại lai, người Việt vẫn kiên định sử dụng tiếng mẹ đẻ như một phương tiện khẳng định bản sắc, tinh thần và văn hóa dân tộc. Những kinh nghiệm từ quá khứ - từ truyền khẩu, sáng tạo chữ viết, đến vai trò của giới trí thức và phong trào cách mạng - đã đặt nền móng vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của tiếng Việt cho đến ngày nay. Một trong những kinh nghiệm đầu tiên và bền vững nhất chính là sự lan truyền ngôn ngữ qua văn học dân gian truyền khẩu.

Truyền khẩu và văn học dân gian

Từ xa xưa, người Việt đã lưu truyền ngôn ngữ thông qua ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, hò vè - những hình thức văn học dân gian gần gũi, dễ nhớ và dễ truyền miệng. Đây là công cụ hữu hiệu để gìn giữ tiếng Việt trong lòng người dân, đặc biệt là trong thời kỳ chưa có chữ viết phổ biến. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú, “tiếng Việt là tiếng của dân tộc, là sợi dây kết nối cộng đồng từ làng quê đến chiến trường”. Thống kê của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam cho biết, kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam hiện được ghi nhận khoảng 15.000 - 20.000 câu tục ngữ và trên 10.000 bài ca dao. Đây mới chỉ là phần sưu tầm được, chưa kể đến số lượng lớn được lưu truyền trong dân gian nhưng chưa được biên soạn thành văn bản. Ngoài ra, có hơn 500 truyện cổ tích dân gian Việt Nam đã được ghi lại, từ các phiên bản truyền miệng đến các công trình sưu tầm của các học giả như Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan. Những hình thức truyền khẩu này không chỉ góp phần giữ gìn tiếng Việt mà còn giúp hình thành chuẩn mực đạo đức, nhân cách và tư duy ngôn ngữ cho bao thế hệ. Cấu trúc ngắn gọn, giàu nhịp điệu, hình ảnh của tục ngữ - ca dao còn giúp người Việt thuộc lòng và sử dụng trong đời sống hằng ngày, từ đó tiếng Việt sống động trong cả sinh hoạt gia đình lẫn không gian cộng đồng.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ

Sự ra đời của chữ Nôm vào khoảng thế kỷ XIII đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình tự chủ văn hóa của người Việt. Chữ Nôm là hệ chữ được sáng tạo dựa trên chữ Hán, nhưng được người Việt “Việt hóa” để ghi âm tiếng nói của chính mình. Đây là một bước đi táo bạo và đầy bản lĩnh trong bối cảnh văn hóa Trung Hoa chi phối mạnh mẽ khu vực Đông Á. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, hiện có khoảng 34.000 văn bản chữ Nôm đang được lưu trữ tại các viện, thư viện và đình chùa trên cả nước, với nội dung trải dài từ văn học, y học, luật pháp cho đến Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Những tác phẩm nổi bật như "Truyện Kiều" (Nguyễn Du), "Lục Vân Tiên" (Nguyễn Đình Chiểu), thơ Hồ Xuân Hương, hay "Chinh phụ ngâm" (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm) đều được viết hoặc phiên âm bằng chữ Nôm, phản ánh sự giàu có và đa dạng của tiếng Việt trong văn học bác học và bình dân. Đến thế kỷ XVII, chữ Quốc ngữ - hệ thống chữ viết dựa trên mẫu tự Latin - ra đời do các giáo sĩ Bồ Đào Nha và Pháp như Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes… khởi xướng. Ban đầu được dùng chủ yếu trong giới Công giáo, chữ Quốc ngữ dần được người Việt tiếp nhận và hoàn thiện. Bước ngoặt thực sự diễn ra vào đầu thế kỷ XX, khi Phong trào Duy Tân và các nhà trí thức như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của vận động mạnh mẽ việc sử dụng chữ Quốc ngữ trong báo chí, giáo dục và hành chính. Theo số liệu của GS. Nguyễn Tài Cẩn (2007), chỉ trong vòng 30 năm đầu thế kỷ XX, tỷ lệ biết đọc - biết viết bằng chữ Quốc ngữ tại Việt Nam tăng từ dưới 5% lên gần 20% - một bước tiến vượt bậc so với trước đó hàng thế kỷ dùng chữ Hán - Nôm. Đến thời điểm Cách mạng Tháng Tám (1945), chữ Quốc ngữ chính thức được xem là ngôn ngữ quốc gia, trở thành công cụ chính yếu trong giáo dục, văn hóa và truyền thông. Chính nhờ chữ Quốc ngữ, tiếng Việt bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, không chỉ được ghi chép phổ cập mà còn được hệ thống hóa, chuẩn hóa trong nghiên cứu ngôn ngữ học, giáo dục đại chúng và sáng tác hiện đại.

Vai trò của trí thức, văn sĩ

Trong tiến trình giữ gìn và phát triển tiếng Việt, đội ngũ trí thức, văn sĩ đóng vai trò trung tâm như những người gìn giữ linh hồn ngôn ngữ qua các thời kỳ. Từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nho, nhà thơ lớn như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Phan Bội Châu… đã không chỉ sử dụng tiếng Việt như công cụ sáng tác mà còn như một biểu tượng của tinh thần dân tộc và khát vọng tự chủ văn hóa. Nguyễn Du (1765-1820) với kiệt tác Truyện Kiều - viết bằng chữ Nôm, thể thơ lục bát - không chỉ làm giàu kho từ vựng tiếng Việt, mà còn nâng cao khả năng biểu cảm của tiếng mẹ đẻ. Với hơn 3.254 câu thơ lục bát, Truyện Kiều thể hiện trình độ điêu luyện trong việc vận dụng tiếng Việt dân gian kết hợp với thi pháp bác học. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận định: “Ngôn ngữ trong Truyện Kiều là đỉnh cao của tiếng Việt cổ điển” (Thi nhân Việt Nam, 1942). Hồ Xuân Hương (cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX) được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” với phong cách thơ độc đáo, sử dụng tiếng Việt thuần túy, giàu tính trào phúng và nữ quyền. Thơ bà là minh chứng cho khả năng phản biện xã hội sâu sắc bằng tiếng mẹ đẻ, vượt qua rào cản của văn chương Hán học đương thời. Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là biểu tượng của văn chương yêu nước. Tác phẩm Lục Vân Tiên viết bằng chữ Nôm, sử dụng tiếng Việt mộc mạc miền Nam, thể hiện đạo lý nhân nghĩa, hiếu trung. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu dùng thơ văn để kêu gọi lòng yêu nước, giữ gìn tiếng Việt như một “tuyến phòng thủ tinh thần” trước văn hóa ngoại lai. Bên cạnh đó, Trương Vĩnh Ký (1837-1898) - nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục tiên phong - đã biên soạn và viết hơn 100 đầu sách bằng chữ Quốc ngữ và được UNESCO vinh danh là một trong 18 danh nhân văn hóa thế giới vào năm 1997. Ông góp phần lớn vào việc chuẩn hóa tiếng Việt viết theo mẫu tự Latin và truyền bá qua báo chí, sách giáo khoa. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh trong đầu thế kỷ XX cũng khẳng định việc phải dùng tiếng Việt, báo chí Việt để thức tỉnh dân trí. Tờ Nam Phong tạp chí (1917-1934) của Phạm Quỳnh viết bằng Quốc ngữ, đăng tải các tiểu luận văn hóa - chính trị - ngôn ngữ đã góp phần củng cố tiếng Việt như một ngôn ngữ học thuật có khả năng diễn đạt tri thức hiện đại. Nhờ những đóng góp to lớn của các trí thức này, tiếng Việt từ chỗ chỉ là tiếng nói dân gian đã vươn lên trở thành ngôn ngữ văn học, học thuật và hành chính - có hệ thống, có sức sống và có chiều sâu văn hóa.

Gìn giữ tiếng Việt trong thời thuộc địa và kháng chiến

Trong thời kỳ Pháp thuộc, tiếng Pháp được ưu tiên sử dụng trong hành chính, giáo dục và báo chí, trở thành ngôn ngữ chính thức tại các trường học thuộc địa. Theo nhà sử học Trần Văn Giàu, đến đầu thế kỷ XX, việc dạy chữ Hán bị loại bỏ, còn chữ Quốc ngữ dù tồn tại nhưng bị xem như ngôn ngữ của tầng lớp bình dân (Giáo dục Việt Nam thời thuộc Pháp, NXB Giáo dục, 1996). Tuy nhiên, chính trong bối cảnh đó, phong trào Duy Tân và các nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... đã nhìn thấy rõ vai trò quan trọng của tiếng Việt trong việc phục hưng văn hóa dân tộc. Phan Châu Trinh kêu gọi cải cách bằng con đường giáo dục dân trí, trong đó chữ Quốc ngữ là công cụ then chốt. Ông nhấn mạnh: “Muốn khai hóa dân trí thì phải dạy bằng tiếng Việt, vì đó là thứ tiếng mà ai cũng hiểu được.”. Tờ Đông Dương tạp chí (1913-1919) do Nguyễn Văn Vĩnh điều hành là một trong những tờ báo đầu tiên sử dụng toàn bộ chữ Quốc ngữ để truyền bá kiến thức, cổ vũ cải cách, với lượng phát hành trung bình 4.000 - 6.000 bản/tháng - một con số rất lớn thời bấy giờ (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 2014).

Các tờ như Nam Phong tạp chí, Lục Tỉnh Tân Văn, Gia Định Báo... cũng góp phần nâng vị thế của tiếng Việt từ một ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ nói thành ngôn ngữ viết, ngôn ngữ báo chí, văn hóa, tri thức, đem ý nghĩ trở thành con chữ và đem con chữ thành ý nghĩa cho đời. Bước sang thời kỳ Cách mạng Tháng Tám (1945) và hai cuộc kháng chiến, tiếng Việt trở thành “vũ khí tư tưởng” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ các tờ báo như Cứu quốc, Sự thật, Quân đội nhân dân, đến hàng loạt bài thơ cách mạng của Tố Hữu, Sóng Hồng, Xuân Diệu, tiếng Việt không chỉ truyền tải thông tin mà còn khơi dậy lòng yêu nước, lý tưởng đấu tranh và niềm tin vào chiến thắng. Đặc biệt, Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết hoàn toàn bằng tiếng Việt là một dấu mốc lịch sử, khẳng định tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ chủ quyền của một quốc gia độc lập.

Theo Tạp chí Cộng sản (2022): "Tiếng Việt đã được Đảng và Bác Hồ sử dụng như một công cụ đắc lực trong mặt trận tư tưởng, giúp gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, cổ vũ toàn dân đứng lên giành và giữ độc lập".

Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tiếng Việt không chỉ là công cụ truyền đạt thông tin, mà còn là phương tiện quan trọng để đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ và phát triển văn hóa Việt Nam. Quan điểm này được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện chính trị, đặc biệt là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và các nghị quyết về văn hóa, giáo dục, truyền thông.

Trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững đất nước” - trong đó ngôn ngữ tiếng Việt được coi là trụ cột trong xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Đảng nhấn mạnh yêu cầu phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, phát triển tiếng Việt phù hợp với thời đại mới nhưng vẫn giữ vững cốt cách dân tộc.

Gần đây nhất, trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 (ban hành theo Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ), việc “giữ gìn, phát huy và làm giàu tiếng Việt” được đặt trong nhóm nhiệm vụ trọng tâm, cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục ngôn ngữ trong nhà trường, tăng cường ứng dụng công nghệ số để phổ biến tiếng Việt trong và ngoài nước, đặc biệt là trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Tư tưởng xuyên suốt của Đảng là: Giữ gìn tiếng Việt chính là giữ gìn linh hồn dân tộc, là nền tảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy phát triển giáo dục, văn hóa và truyền thông lành mạnh trong kỷ nguyên hội nhập. Tiếng Việt - dưới sự lãnh đạo của Đảng - không chỉ tồn tại, mà còn không ngừng được làm giàu, hiện đại hóa và lan tỏa ra thế giới.

2. Bài học cho thời đại công nghệ mới

Trong thời đại số hóa toàn diện và toàn cầu hóa mạnh mẽ, tiếng Việt đang phải đối mặt với không ít thách thức. Ngôn ngữ mạng phát triển nhanh, xu hướng giao tiếp nhanh - gọn - tiện khiến tiếng Việt có nguy cơ bị giản lược, lai tạp và lệch chuẩn. Tuy nhiên, nếu nhìn lại những kinh nghiệm gìn giữ tiếng Việt từ quá khứ, chúng ta hoàn toàn có thể rút ra nhiều bài học thiết thực để bảo vệ và phát huy giá trị của tiếng mẹ đẻ trong thời đại mới.

Thứ nhất, cần nâng cao ý thức sử dụng tiếng Việt chuẩn mực trong cộng đồng, đặc biệt là trong giới trẻ. Trước sự bùng nổ của mạng xã hội và xu hướng giao tiếp rút gọn, nhiều người có xu hướng sử dụng tiếng Việt sai chuẩn, xen lẫn từ ngữ ngoại lai như “cutie”, “crush”, “deadline”, “toxic”, “chill”, hoặc các từ ngữ mạng như “mlem”, “xỉu up xỉu down”, “thầu giầu, cá chê, a kay...”. Việc này dần tạo nên một hệ thống ngôn ngữ phi chính thống, gây khó khăn trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ. Do đó, mỗi cá nhân - từ học sinh, sinh viên đến người đi làm - cần có trách nhiệm trong cách sử dụng ngôn ngữ, đảm bảo tiếng Việt được dùng đúng ngữ pháp, đúng ngữ cảnh và mang tính văn hóa. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2023, có tới 60% học sinh Trung học phổ thông sử dụng ít nhất một từ ngữ lệch chuẩn trong các bài viết trên mạng xã hội mỗi ngày. Điều đó đặt ra yêu cầu giáo dục ngôn ngữ cần đi đôi với ý thức văn hóa, từ trong nhà trường đến ngoài xã hội.

Thứ hai, cần ứng dụng công nghệ một cách tích cực để hỗ trợ việc học và lan tỏa tiếng Việt. Công nghệ không phải là nguyên nhân làm mai một tiếng mẹ đẻ, mà chính là công cụ mạnh mẽ nếu biết khai thác hiệu quả. Nhiều ứng dụng học tiếng Việt đã được phát triển như Monkey Stories, Fun Vietnamese, từ điển điện tử Lạc Việt, Vdict.com… giúp người học rèn luyện từ vựng, phát âm, và kỹ năng ngôn ngữ một cách sinh động, tiện lợi. Đặc biệt, các nền tảng số còn hỗ trợ người Việt ở nước ngoài và người nước ngoài tiếp cận tiếng Việt một cách thuận tiện, từ đó góp phần đưa ngôn ngữ Việt ra thế giới.

Thứ ba, cần đề cao văn hóa đọc và khuyến khích sáng tác nội dung bằng tiếng Việt. Giống như cha ông ta ngày trước đã “học chữ để giữ nước”, thì ngày nay việc đọc và viết vẫn là phương tiện hữu hiệu để giữ gìn và phát huy tiếng mẹ đẻ. Việc khuyến khích giới trẻ đọc sách tiếng Việt, viết blog, sáng tác truyện, làm video YouTube, podcast… bằng tiếng Việt giúp tăng cường khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, linh hoạt và sáng tạo. Theo khảo sát của Alpha Books (2023), hơn 70% học sinh, sinh viên khẳng định việc đọc sách tiếng Việt thường xuyên giúp họ nâng cao khả năng viết và tư duy ngôn ngữ.

Thứ tư, cần phát huy vai trò của truyền thông, giáo dục và gia đình - những yếu tố then chốt trong việc định hình và gìn giữ tiếng Việt. Truyền thông đại chúng cần có trách nhiệm trong việc sử dụng ngôn từ chuẩn mực, tránh xu hướng lan truyền ngôn ngữ lệch chuẩn, phản cảm. Trong giáo dục, chương trình môn Ngữ văn cần được cải tiến theo hướng thực tế, gắn với đời sống, tránh sáo rỗng. Còn trong gia đình - nơi hình thành ngôn ngữ đầu đời - cha mẹ nên làm gương bằng cách thường xuyên nói chuyện, đọc sách, kể chuyện cho con bằng tiếng Việt. Từ đó, trẻ sẽ hình thành tình yêu và thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ ngay từ nhỏ. Đặc biệt cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: Phần lớn những gia đình người Việt Nam ở nước ngoài có tâm lý chung: muốn con mình biết hai, ba ngôn ngữ để thích nghi với môi trường sở tại. Tuy vậy, tiếng Việt (tiếng mẹ đẻ) ở xứ người là một vấn đề lớn, rất hạn chế, mặc dù chữ viết tiếng Việt dùng chung mẫu tự nên dễ viết, dễ đánh vần nên khi phát âm, nói tiếng Việt không phải là rào cản lớn. Tuy nhiên, thế hệ trẻ người Việt Nam được sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, khi mỗi ngày đến lớp, hoặc đi làm luôn giao tiếp bằng tiếng bản xứ. Khi về nhà lại không có dịp trao đổi bằng tiếng Việt như món ăn hàng ngày.. Điều này dẫn đến sự bất cập lớn, chẳng hạn khi cha mẹ nói chuyện với các con bằng tiếng bản xứ (tiếng bồi) những vấn đề cơ bản trong cuộc sống hàng ngày có thể hiểu nhau nhưng khi trao đổi những vấn đề chuyên sâu hơn thì cha mẹ không thể diễn tả bằng tiếng bản xứ và con cái lại không am hiểu sâu xa tiếng Việt.. Do đó, khi cần quyết định những vấn đề lớn của gia đình mang tính chất đặc biệt quan trọng thì phải thuê phiên dịch viên.. Việc mai một tiếng Việt, sự suy giảm về việc gìn giữ tiếng Việt của các thế hệ trẻ người Việt Nam ở nước ngoài, hiện nay đang trở thành vấn đề nhức nhối. Nghiên cứu của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (Bộ Ngoại giao) năm 2021 chỉ ra rằng, trên 65% trẻ em người Việt sinh ra tại nước ngoài có trình độ tiếng Việt ở mức hạn chế, đặc biệt trong khả năng viết và diễn đạt tư duy trừu tượng. Nhiều gia đình thừa nhận rằng, dù con cái có thể hiểu tiếng Việt ở mức giao tiếp cơ bản, nhưng khi trao đổi những vấn đề sâu về giá trị, đạo đức hay cảm xúc, thì tiếng Việt gần như bị thay thế bởi ngôn ngữ bản địa hoặc bị pha trộn, "bồi hóa". Một số gia đình thậm chí phải thuê phiên dịch viên trong những tình huống quan trọng như xử lý giấy tờ pháp lý, di chúc, định hướng nghề nghiệp… Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả giao tiếp nội bộ mà còn tách rời thế hệ trẻ khỏi cội nguồn văn hóa Việt.

Để gìn giữ tiếng Việt trong bối cảnh hiện đại không chỉ cần những chiến lược vĩ mô từ nhà nước hay ngành giáo dục, mà quan trọng hơn là sự chủ động của từng cá nhân, từng gia đình và từng cộng đồng. Mỗi người sử dụng tiếng Việt chuẩn mực, sáng tạo và có trách nhiệm chính là đang góp phần gìn giữ linh hồn của dân tộc trong kỷ nguyên số.

Kết luận

Giữ gìn tiếng Việt không chỉ là hành động bảo vệ một ngôn ngữ mà còn là gìn giữ linh hồn dân tộc. Những kinh nghiệm từ cha ông cho thấy, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, tiếng Việt vẫn phải được bảo vệ và phát triển nếu mỗi cá nhân đều có ý thức và niềm tự hào. Mỗi người Việt, khi lựa chọn nói đúng, viết đúng, yêu đúng tiếng mẹ đẻ - cũng chính là đang góp phần bảo vệ cội nguồn văn hóa của chính mình. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Tiếng nói là một thứ của quý vô cùng. Phải giữ gìn tiếng Việt cho trong sáng, giàu đẹp". Tiếng Việt sẽ còn mãi - nếu chúng ta cùng gìn giữ bằng ý thức, bằng trách nhiệm, và bằng cả niềm tự hào dân tộc. Trong thời đại công nghệ, hơn bao giờ hết, việc kết hợp giữa truyền thống và công nghệ chính là chìa khóa để tiếng Việt luôn trường tồn trong mọi thời đại.

Tài liệu tham khảo

1. Alpha Books (2023). Khảo sát về thói quen đọc sách của học sinh, sinh viên Việt Nam. Báo cáo nội bộ - Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (2001). Từ Gia Định Báo đến báo chí hiện đại. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ.

3. Nguyễn Tài Cẩn (2007). Nguồn gốc và quá trình hình thành chữ Quốc ngữ. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

4. Trần Văn Giàu (1996). Giáo dục Việt Nam thời thuộc Pháp. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

5. Hoài Thanh - Hoài Chân (1942). Thi nhân Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học (tái bản).

6. Phan Châu Trinh (2006). Tác phẩm chọn lọc. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.

7. Trần Ngọc Thêm (2004). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Giáo dục.

8. Tạp chí Cộng sản (2022). Tiếng Việt - nền tảng văn hóa tư tưởng trong thời kỳ kháng chiến. Số 965, tháng 3/2022.

9. Tạp chí Văn hóa Nghệ An (2015). Tiếng Việt - sợi dây kết nối cộng đồng Việt từ làng quê đến chiến trường.

10. Tạp chí Nghiên cứu Văn học (2014). Vai trò của Đông Dương tạp chí trong sự hình thành văn học Quốc ngữ.

11. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2021). Thư mục văn bản Hán Nôm Việt Nam. Trung tâm Hán Nôm Quốc gia.

12. UNESCO (1997). Danh nhân văn hóa thế giới: Pétrus Trương Vĩnh Ký. Hồ sơ vinh danh của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc.

CÙ THỊ THANH HOA

Phó Trưởng phòng Hành chính - Tổng hợp, Văn phòng Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

LÊ THỊ NGA

Chuyên viên, Phòng Hành chính - Tổng hợp, Văn phòng Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Các tin khác