Ảnh minh họa.
Thứ nhất, về giải thích từ ngữ “người tiêu dùng”, theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng, cần xem xét lại nội dung giải thích từ ngữ “người tiêu dùng” tại khoản 1 Điều 3 dự án Luật vì thuật ngữ “người tiêu dùng” giải thích tại khoản 1 Điều 3 dự án Luật hiện có phạm vi rất rộng. Cụ thể, “người tiêu dùng là người mua, sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức và không vì mục đích thương mại” được hiểu là người thực hiện hoạt động mua, sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ ở bất cứ đâu trên thế giới mà không chỉ giới hạn trên lãnh thổ Việt Nam.
Do đó, để hoàn thiện quy định về giải thích từ ngữ người tiêu dùng, đề nghị bổ sung cụm từ “trên lãnh thổ Việt Nam” vào sau cụm từ “không vì mục đích thương mại” tại khoản 1 Điều 3 dự án Luật. Mặt khác, thuật ngữ “người tiêu dùng” được giải thích theo dự kiến tại khoản 1 Điều 3 dự án Luật chưa thực sự làm rõ được nội hàm của “tiêu” và “dùng”. Cụ thể, trong giải thích “người tiêu dùng”, Ban Soạn thảo sử dụng dấu phẩy (,) để tách giữa hai động từ “mua” và “sử dụng”; điều này vô hình chung sẽ gây khó khăn trong việc phân định chủ thể “người tiêu dùng” là “người mua” và người tiêu dùng là “người sử dụng”.
Vì vậy, đề nghị biên tập lại định nghĩa “người tiêu dùng” theo hướng là người mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ…
Thứ hai, về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng dễ bị tổn thương. Tại khoản 1 Điều 8 dự án Luật dự kiến người tiêu dùng dễ bị tổn thương là người tiêu dùng tại thời điểm mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có khả năng phải chịu nhiều tác động bất lợi về tiếp cận thông tin, sức khỏe, tài sản, giải quyết tranh chấp, bao gồm:
(i) Người cao tuổi theo quy định của pháp luật người cao tuổi;
(ii) Người khuyết tật theo quy định của pháp luật người khuyết tật;
(iii) Trẻ em theo quy định của pháp luật trẻ em;
(iv) Người dân tộc thiểu số; người sống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về công tác dân tộc;
(v) Phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
(vi) Người bị bệnh hiểm nghèo tại danh mục bệnh hiểm nghèo theo quy định của pháp luật;
(vii) Thành viên hộ nghèo theo quy định của pháp luật.
Với dự kiến về người tiêu dùng dễ bị tổn thương nêu trên, đề nghị Ban Soạn thảo thuyết minh, làm rõ: Trường hợp người tiêu dùng dễ bị tổn thương là phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi tại điểm đ khoản 1 Điều 8 dự án Luật được hiểu là nuôi con đẻ hay nuôi con nuôi? Đồng thời, để phù hợp, thống nhất với các quy định của pháp luật khác đã được ban hành, đề nghị xem xét, nâng thời gian phụ nữ nuôi con từ 12 tháng lên 36 tháng tuổi thuộc nhóm người tiêu dùng dễ bị tổn thương để tạo điều kiện cho phụ nữ được hưởng các quyền lợi của người tiêu dùng dễ bị tổn thương.
Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
Do đó, đề nghị bổ sung người hạn chế năng lực hành vi dân sự thuộc nhóm người tiêu dùng dễ bị tổn thương nhằm bảo đảm các quyền của người tiêu dùng theo quy định của dự án Luật và các quyền, chính sách ưu tiên theo quy định của pháp luật có liên quan.
Thứ ba, về các hành vi bị cấm, tại điểm đ khoản 1 Điều 10 dự án Luật dự kiến một trong những hành vi bị cấm là: “Không đền bù, trả lại tiền hoặc đổi lại sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng do nhầm lẫn của tổ chức, cá nhân kinh doanh”. Việc quy định hành vi bị cấm nêu trên là thực sự cần thiết tuy nhiên để hành vi bị cấm được rõ ràng, cụ thể, đảm bảo tính minh bạch trong quy định của văn bản, tính khả thi trên thực tế, đề nghị biên tập, chỉnh sửa lại theo hướng sau: “Không đền bù, trả lại tiền hoặc đổi lại sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng do sự nhầm lẫn của tổ chức, cá nhân kinh doanh không cung cấp đúng sản phẩm theo yêu cầu của người tiêu dùng hoặc gây cho người tiêu dùng nhầm lẫn trong việc mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ vì tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin sai lệch sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ”.
Thứ tư, về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng trong giao dịch trên không gian mạng. Tại điểm d khoản 3 Điều 39 dự án Luật quy định: “Cho phép người tiêu dùng phản hồi, đánh giá về tổ chức, cá nhân kinh doanh, đồng thời hiển thị kết quả phản hồi, đánh giá, trừ trường hợp phản hồi, đánh giá đó vi phạm các quy định của pháp luật, trái đạo đức xã hội”. Chúng tôi thấy rằng trách nhiệm nêu trên là chưa phù hợp với thực tiễn; chưa đảm bảo tính khả thi, tính hiệu lực, hiệu quả của quy định; chưa làm rõ được tổ chức, cá nhân kinh doanh mà người tiêu dùng phản hồi, đánh giá.
Vì vậy, đề nghị Ban Soạn thảo xem xét, biên tập lại theo hướng sau: “Cho phép người tiêu dùng phản hồi, đánh giá về tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp, đồng thời, hiển thị đầy đủ và chính xác kết quả phản hồi, đánh giá, trừ trường hợp phản hồi đánh giá đó vi phạm các quy định của pháp luật, trái đạo đức xã hội”.
Thạc sĩ, Luật gia PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum