Tòa án thị xã Ngã Năm, Sóc Trăng xét xửu vụ án hình sự. Ảnh: Tấn Đạt.
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong thực tiễn xét xử, khi áp dụng nguyên tắc này, có nhiều vướng mắc nảy sinh
1. Vướng mắc về trách nhiệm thu thập chứng cứ chứng minh vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án có vấn đề dân sự nảy sinh do việc thực hiện tội phạm. Vì vậy, ngoài việc phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong vụ án. Điều này không những có tác dụng giải quyết triệt để, khách quan những quan hệ dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm mà còn góp phần làm sáng tỏ những nội dung thuộc trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong việc định tội danh và định khung hình phạt hoặc việc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử còn phát sinh một số trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chỉ tập trung điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm, trách nhiệm hình sự mà ít quan tâm thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh, giải quyết phần dân sự phát sinh từ hành vi phạm tội. Các thiếu sót thường là các tài liệu, chứng cứ dùng để chứng minh về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, căn cứ xác định thiệt hại…
Vì vậy, sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, tùy trường hợp Tòa án phải trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung (theo điểm a khoản 1 Điều 280 của BLTTHS) hoặc yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ (theo Điều 284 của BLTTHS) hoặc Tòa án phải tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ (theo Điều 252 của BLTTHS) mới có đủ căn cứ giải quyết phần dân sự trong vụ án, gây chậm tiến độ giải quyết, xét xử vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.
2. Vướng mắc trong việc xác định trường hợp nào vấn đề dân sự phải giải quyết trong vụ án hình sự và trường hợp được tách vấn đề dân sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự
Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn thi hành Điều 30 của BLTTHS nên thực tiễn xét xử còn gặp vướng mắc là dựa vào tiêu chí nào để cơ quan tiến hành tố tụng xác định trường hợp nào vấn đề dân sự phải được giải quyết trong cùng vụ án hình sự và trường hợp nào được tách vấn đề dân sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Chúng ta có thể tham khảo nội dung hướng dẫn của TANDTC tại Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19-9-2003 về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự để giải quyết các vướng mắc nêu trên như sau:
2.1. Xác định vấn đề dân sự phải được giải quyết trong vụ án hình sự
Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ có phạm vi áp dụng đối với những quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất hiện do việc thực hiện tội phạm. Theo đó, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ bao gồm: Đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường giá trị tài sản do bị chiếm đoạt, nhưng đã bị mất hoặc bị hủy hoại; buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Như vậy, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ được xác định trong phạm vi “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo quy định tại chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLDS), là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại.
Ví dụ: Trong vụ án hình sự “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” đối với bị cáo A. (là nhân viên lái xe của Công ty vận tải X). Trong khi thực hiện nhiệm vụ được Công ty vận tải X phân công, A. có hành vi điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát ZZZ.ZZ đi không đúng phần đường gây tai nạn giao thông làm bị hại B chết. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trên, người đại điện hợp pháp của bị hại B. yêu cầu Tòa án phải đưa Công ty Bảo hiểm Y - là doanh nghiệp đã ký hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự với Công ty vận tải X đối với xe ô tô tải biển kiểm soát ZZZ.ZZ-vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là bị đơn dân sự và yêu cầu Công ty Bảo hiểm Y trực tiếp bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại B. Giải quyết yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại B. có hai quan điểm như sau:
- Quan điểm 1: Tòa án phải chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại B., đưa Công ty Bảo hiểm Y tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là bị đơn dân sự và xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại khi xét xử vụ án.
- Quan điểm 2: Tòa án không chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại B., về việc đưa Công ty Bảo hiểm Y tham gia tố tụng trong vụ án.
Chúng tôi thống nhất theo Quan điểm 2. Bởi vì, việc giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án này xuất phát từ hành vi của bị cáo A. gây ra là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; vấn đề bồi thường thiệt hại cho bị hại B thuộc trách nhiệm bồi thường của bị cáo A. hoặc Công ty Vận tải X phải được giải quyết trong cùng vụ án hình sự. Còn mối quan hệ giữa Công ty Vận tải X và Công ty Bảo hiểm Y là mối quan hệ giữa người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm được phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa hai bên, không liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại B. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật Kinh doanh bảo hiểm, người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Do đó, không cần thiết phải đưa Công ty Bảo hiểm Y vào tham gia tố tụng trong vụ án hình sự trên.
2.2. Xác định trường hợp vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tách vấn đề dân sự ra giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự
Theo quy định của Điều 30 của BLTTHS, trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo hướng dẫn của Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19-9-2003 của TANDTC, Tòa án chỉ được tách để giải quyết phần hay một phần dân sự trong vụ án hình sự bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu, nếu phần dân sự được tách không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Chưa tìm được, chưa xác định được bị hại hoặc nguyên đơn dân sự.
- Bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu.
- Bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu, nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của Toà án nói riêng.
- Bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân dự vắng mặt tại phiên toà và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự.
3. Trong quá trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, Tòa án có được mở phiên hòa giải giữa các đương sự như trong tố tụng dân sự hay không?
Chúng ta thấy rằng, mặc dù thực chất vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là quan hệ pháp luật dân sự nhưng nó lại phát sinh trên cơ sở hành vi phạm tội, hình phạt cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Vì vậy, khi xem xét, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự về nội dung phải tuân theo các quy định của BLHS và BLDS nhưng về thủ tục tố tụng phải tuân theo trình tự, thủ tục của BLTTHS chứ không phải là trình tự, thủ tục của BLTTDS như trong vụ án dân sự thuần túy. Trong BLTTHS không quy định về trình tự, thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự. Do đó, Tòa án không được thực hiện việc mở phiên hòa giải về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cũng không bắt buộc phải tiến hành hòa giải giữa các bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (hoặc người đại diện hợp pháp của họ). Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, Hội đồng xét xử vẫn tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Trường hợp các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau và sự thỏa thuận của các bên không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội thì Tòa án ghi nhận việc thỏa thuận này của các bên và sự thỏa thuận này được ghi vào phần quyết định của bản án.
Trên đây là một số ý kiến trao đổi về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến trao đổi, góp ý của đồng nghiệp.
LÊ THANH VŨ
TAND tỉnh Sóc Trăng
(Tạp chí Tòa án)