/ Bút ký Luật sư
/ Một vài cảm nghĩ về bối cảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL khai sinh nghề luật sư cách mạng ở Việt Nam

Một vài cảm nghĩ về bối cảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL khai sinh nghề luật sư cách mạng ở Việt Nam

10/10/2025 05:42 |

(LSVN) - Trong buổi Lễ lịch sử kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02/9 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, tôi xúc động được lắng nghe giọng nói của Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa qua chương trình truyền hình trực tiếp của Đài Truyền hình Việt Nam. Giọng nói ấm áp, chứa đựng cả một sức nặng của hành trình từ khi Bác ra đi tìm đường cứu nước, khởi đầu cho thành quả lịch sử cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gắn liền với công lao vô cùng to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo tiên phong của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nghề luật sư cách mạng Việt Nam đã trải qua 80 năm hình thành và phát triển, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Chính phủ lâm thời ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 thành lập các tổ chức các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay đã vinh dự trở thành Ngày truyền thống luật sư Việt Nam. Trong suy nghĩ của mình, tôi luôn cố gắng lý giải vì sao trong bối cảnh chính quyền cách mạng non trẻ đang đối diện với “thù trong giặc ngoài”, mà chỉ sau 01 tháng 8 ngày, Bác Hồ đã trực tiếp ký Sắc lệnh số 46/SL? Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng tổ chức các đoàn thể luật sư trong khi đang phải giải quyết ngàn vạn vấn đề quốc kế dân sinh và đất nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?

TS. Luật sư Phan Trung Hoài.

TS. Luật sư Phan Trung Hoài.

Sau này, khi va đập trong đời sống tố tụng, tư pháp gần 44 năm, được tích lũy kiến thức trong môi trường đào tạo, bản thân tôi tìm hiểu, nghiên cứu các tư liệu lịch sử, các ý kiến, tác phẩm còn lưu giữ lại, tôi nhận thấy tư tưởng Hồ Chí Minh có khởi nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa Á Đông mà các bậc minh quân ở Việt Nam thời phong kiến để lại, được tiếp cận với quan niệm về công lý, về quyền của các dân tộc và quyền con người bị áp bước dưới chủ nghĩa thực dân đế quốc, hiểu rõ về bản chất nghề luật sư[1]. Trong hoàn cảnh đặc biệt khi bị chính quyền Hồng Kông bắt giữ ngày 06/6/1931, đối diện với mức án tử hình mà Tòa án thực dân Pháp ở Vinh đã tuyên vắng mặt ngày 10/10/1929, Người đã được Luật sư F.H. Loseby cùng các cộng sự bào chữa trắng án qua 9 phiên tòa từ ngày 31/7 đến ngày 12/9/1931[2]. Mặc dù có nhiều ý kiến nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của Luật sư F.H. Loseby trong các phiên tòa nói trên, nhưng trên một phương diện ngược lại, chính cốt cách và bản lĩnh cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã cảm hóa và nâng vị thế của Luật sư F.H. Loseby lên một tầm vóc mới.

Bối cảnh khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL, bên cạnh sự chấp thuận đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và sự thống nhất trong Chính phủ tại cuộc họp ngày 4/10/1945 và trao đổi với các luật sư, tôi hình dung lúc đó Bác Hồ chắc chắn đã có sự trợ giúp, tham vấn của các luật sư tên tuổi tham gia trong bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân. Bởi lẽ, ngay từ khi mới tổ chức bộ máy Nhà nước, Người đã chỉ đạo Bộ Tư pháp của Chính phủ liên hiệp lâm thời tiến hành tuyển lựa số thẩm phán đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trong số này có cả các luật sư cũ “tương đối sạch sẽ, không phạm tội ác gì lớn đối với nhân dân”, do Hội đồng tuyển chọn có cả Trưởng Đoàn Luật sư Hà Nội lúc bấy giờ là ông Nguyễn Huy Mẫn tham gia[3].

Không những vậy, Luật sư Nguyễn Văn Hưởng còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy và bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp và là một trong những người đầu tiên được Bác Hồ cấp giấy chứng minh “để liên lạc với các cơ quan hành chính, quân sự được dễ dàng”[4]. Nhiều luật gia, luật sư tên tuổi khác như các ông Vũ Đình Hòe (Bộ trưởng Bộ Tư pháp), Trần Công Tường, Phan Anh, Vũ Văn Hiền cũng thường xuyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh tham khảo ý kiến về các công việc quốc gia đại sự, về “mặt pháp lý của cuộc đấu tranh”, trong đó liên quan đến mặt trận đàm phán ngoại giao khi ký kết Hiệp định sơ bộ 06/3/1946. Đến lượt mình, các giá trị tư tưởng về pháp lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên, góp phần giải quyết các mắc mứu, bất đồng nảy sinh trong quá trình hoạt động tư pháp, nhất là liên quan đến cuộc tranh luận về vấn đề “tư pháp độc lập”[5] và Bác Hồ là người quyết định giữ lại tổ chức luật sư được hình thành từ thời Pháp thuộc và được tổ chức lại cho phù hợp với yêu cầu mới của chính quyền cách mạng.

Có thể nói, xung quanh Chính phủ liên hiệp lâm thời và Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn có vai trò đóng góp to lớn của đội ngũ luật gia, luật sư tên tuổi thời bấy giờ. Các bậc luật sư tiền bối nói trên đa phần đều được đào tạo nghề luật tại Pháp, nên hiểu rất rõ về thể chế luật sư được thành lập từ dưới chế độ thực dân Pháp. Theo đó, nền tư pháp Nam Kỳ được tổ chức theo Sắc lệnh ngày 25/7/1864 của Hoàng đế Napoléon III, đã hình thành những người bào chữa (défenseur) đặt bên cạnh các tòa án thuộc địa[6]. Những người bào chữa này đảm trách việc biện hộ và làm rõ cho việc thẩm xét những vụ kiện dân sự và thương mại, thi hành những bản án và phán quyết của tòa, biện hộ cho những bị cáo và bị can trước tòa đại hình và tòa tiểu hình. Họ là những công chức được Thống đốc bổ nhiệm và bãi nhiệm, phải là công dân Pháp và trải qua kỳ thi tuyển theo pháp luật của Pháp. Bào chữa viên hoạt động theo mô hình của Pháp, vừa có tư cách người biện hộ, vừa là người thụ ủy thay mặt cho thân chủ trước tòa (gần giống như đại tụng viên bên Pháp). Sau đó, người bào chữa được đổi thành “luật sư - biện hộ viên” (avocat- défenseur) vào năm 1884, vẫn phải là công dân Pháp, được hưởng thù lao bào chữa theo thỏa thuận.

Chế định luật sư thời Pháp thuộc có những thay đổi theo hướng phục vụ quyền lợi của thực dân Pháp, có lúc nới lỏng về tiêu chuẩn, nhưng sau đó lại siết chặt. Với Sắc lệnh ngày 25 tháng 5 năm 1930 (sau đó được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 21 tháng 7 năm 1931) do Toàn quyền Đông Dương ban hành, chế định luật sư được coi là có những cải tổ quan trọng, trong đó danh xưng “luật sư - biện hộ viên” đã được thay bằng “luật sư” và tổ chức thành 2 luật sư đoàn riêng biệt ở Sài Gòn và Hà Nội, thực sự chấm dứt chế độ luật sư công chức, trở thành hội đoàn độc lập, có tư cách pháp nhân… Theo sự duy trì tổ chức hành nghề luật sư cũ vào năm 1930 thì chế độ luật sư “công chức” phải đóng tiền thế chân, do viên chức Chính phủ bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm, bị kiểm soát chặt chẽ về mặt kỷ luật bởi nhà nước (giám đốc sở tư pháp) đã bị bãi bỏ, thay vào đó cho phép thù lao luật sư theo thỏa thuận; luật sư đoàn là hội đoàn độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng.

Với sự hiểu biết rõ ràng về hoạt động của tổ chức luật sư được thành lập từ trước khi giành được độc lập như vậy, nên trong Điều thứ 1, Sắc lệnh số 46/SL đã nêu: “Các tổ chức các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ. Sắc lệnh ngày 25 tháng 5 năm 1930 quy định sự tổ chức ấy vẫn tạm thi hành với các điều sửa đổi sau này”. Những nội dung sửa đổi được quy định trong Điều thứ 3, theo đó Điều thứ 5 của Sắc lệnh ngày 25/5/193 này bãi bỏ và thay bằng điều sau đây: “Muốn được liệt danh vào bảng luật sư tại Tòa Thượng thẩm Hà Nội hay Sài Gòn phải có đủ những điều kiện sau này: (1) Có quốc tịch Việt Nam, bất luận nam nữ; (2) Có bằng cử nhân luật; (3) Đã làm luật sự tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam. Những người đã làm luật sự tập sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều nhất là 12 tháng; (4) Có hạnh kiểm tốt; (5) Được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm luật sự thực thụ. Bằng chứng ấy sẽ do Hội đồng kỷ luật luật sư cấp cho sau khi đã xét tài năng và đức hạnh của vị luật sư tập sự ấy.

Trụ sở UBND TP. Hồ Chí Minh mùng một Tết Bính Thân.

Trụ sở UBND TP. Hồ Chí Minh mùng một Tết Bính Thân.

Nếu xét ra rằng luật sự tập sự chưa đủ tư cách, Hội đồng kỷ luật sau khi hỏi vị luật sự tập sự có thể gia hạn tập sự thêm một năm. Hội đồng kỷ luật chỉ có quyền gia hạn thêm tập sự ấy hai lần là cùng (mỗi lần một năm). Hết hạn hai năm ấy, Hội đồng kỷ luật phải cấp bằng chứng hay từ chối hẳn. Nếu từ chối thì bản quyết nghị của Hội đồng phải nói rõ nguyên cớ. Hội đồng phải gửi bản sao bản quyết nghị của mình cho ông Chưởng lý Tòa Thượng thẩm và cho vị luật sư tập sự. Trong hạn một tháng kể từ ngày nhận được bản sao ấy, ông Chưởng lý và vị luật sư tập sự có quyền kháng cáo lên Tòa Thượng thẩm theo Điều thứ 13 Sắc lệnh ngày Sắc lệnh ngày 25 tháng 5 năm 1930 sửa đổi do Sắc lệnh ngày 24 tháng 7 năm 1931”.

Điều thứ 4 quy định: “Đoàn thể luật sư thuộc Tòa Thượng thẩm Sài Gòn hay Tòa Thượng thẩm Hà Nội sẽ bầu một Hội đồng luật sư nếu trong thuộc hạt có mười văn phòng trở lên. Nếu không đủ số mười văn phòng thì các luật sư thực thụ sẽ họp lại thành “Ban luật sư thực thụ” để tạm giữ nhiệm vụ của một Hội đồng luật sư. Ban ấy sẽ tự bầu lấy chủ tịch và tổ chức lấy công việc”. Điều thứ 5 quy định: “Những luật sư đã tập sự được mười tám tháng thì Hội đồng luật sư có thể cho phép tạm quản lý một văn phòng”.

Qua nghiên cứu nội dung chi tiết các điều nói trên tại Sắc lệnh số 46/SL, có một số điểm rất đặc biệt, đáng chú ý là tư tưởng và nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc kế thừa các tổ chức đoàn thể luật sư hình thành từ trước năm 1945 và tạm thi hành Sắc lệnh ngày 25 tháng 5 năm 1930 của Toàn quyền Pháp tại Đông Dương lúc đó là Pierre Marie Antoine Pasquyer ký[7], với các điều sửa đổi sau này của Sắc lệnh số 46/SL.

Có thể khẳng định rằng, Sắc lệnh số 46/SL được ban hành thể hiện nhãn quan và bản lĩnh cực kỳ sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin về tính kế thừa cách mạng, trong đó có sự vận dụng mang tính sách lược các quy định pháp luật cũ, miễn là nội dung không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Chính sự vận dụng tài tình nguyên lý này nên cũng trong ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngay một Sắc lệnh số 47/SL về việc cho phép áp dụng tạm thời các quy định pháp luật cũ theo nguyên tắc nêu trên.

Từ Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945, thể chế và tổ chức, hoạt động luật sư trải qua nhiều thăng trầm, nhưng được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, môi trường pháp lý cho hoạt động của luật sư ngày càng được hoàn thiện, tham gia phủ kín nhu cầu dịch vụ pháp lý cho xã hội, đội ngũ luật sư đã có được mái nhà chung thống nhất thông qua Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn luật sư địa phương. Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, về xây dựng và hoàn thiện chế định luật sư ở nước ta khởi nguồn từ Sắc lệnh số 46/SL đã trở thành ánh sáng thần linh soi đường cho tiến trình đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước bước vào kỷ nguyên mới, từng bước dân chủ hóa hoạt động tố tụng, nâng cao vị thế, vai trò của đội ngũ luật sư trong sứ mệnh phụng sự công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể xã hội.

[1] LS.TS Phan Trung Hoài, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng và hoàn thiện chế định luật sư ở Việt Nam, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp ngày 26/11/2020.

[3] Vũ Đình Hòe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thông tin và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội 2001, tr. 53.

[4] Nội san Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh - Xuân Nhâm Ngọ 2002, tr. 7.

[5] Vũ Đình Hòe, sđd- tr. 53, 228-229.

[6] Phan Đăng Thanh, Các bước hình thành và phát triển của nghề luật sư bào chữa ở Việt Nam (1864-1996), Đề tài tiểu luận kiểm tra công nhận luật sư thực thụ, tháng 5/1996, tr. 8.

[7] Tham khảo: https://backup.liendoanluatsu.org.vn/web/Lich-su-hinh-thanh-va-phat-trien-thiet-che-luat-sutai-Viet-Nam-434.html.

TS. Luật sư PHAN TRUNG HOÀI

Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam

Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC)

Thành viên Hội đồng Tư vấn án lệ Tòa án nhân dân Tối cao

Các tin khác