/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền của bị hại từ góc độ hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự

Nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền của bị hại từ góc độ hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự

06/12/2025 08:53 |

(LSVN) - Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Vì là chủ thể bị thiệt hại, nên đây là đối tượng cần được bảo vệ quyền lợi một cách toàn diện theo quy định của pháp luật. Tất cả thiệt hại thực tế gây ra phải được bù bắp, bồi thường.

Để bảo đảm quyền lợi của mình, họ được và phải được tham gia tố tụng với những quyền đầy đủ và cần thiết. Quyền của bị hại được quy định tại Điều 62 và đan xen trong nhiều quy định khác tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015). Quá trình thực hiện, các quy định này phát sinh một số hạn chế, bất cập. Bài viết phân tích những hạn chế, bất cập này và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền của bị hại trong tố tụng hình sự.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

1. Quy định về quyền của bị hại trong vụ án hình sự

Trước khi ban hành BLTTHS 2015, khái niệm bị hại dùng để chỉ cá nhân bị thiệt hại và sử dụng thuật ngữ “người bị hại”. Quy định này không cho phép xác định cơ quan, tổ chức là bị hại trong vụ án. Tuy nhiên, từ thực tiễn thấy rằng quy định này chưa bao gồm hết các diện đối tượng bị thiệt hại do tội phạm gây ra, phần nào khiến các đối tượng cơ quan, tổ chức không được bình đẳng trước pháp luật so với cá nhân. Chính vì vậy, BLTTHS 2015 đã mở rộng diện bị hại, phân định rõ hai nhóm bị hại là người và cơ quan, tổ chức.

Quyền của bị hại được quy định tại khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015 như sau:

- Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ (điểm a). Quyền này giúp bị hại biết về những quyền và nghĩa vụ của mình bởi không phải ai cũng biết để thực hiện.

- Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu (điểm b). Đây là một trong những điểm mới của BLTTHS 2015. Bị hại có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại của mình là do hành vi phạm tội gây ra để yêu cầu bồi thường; được đưa ra yêu cầu áp dụng các biện pháp trưng cầu giám định, định giá, kê biên… theo quy định.

- Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (điểm c). Nếu như trước đây, bị hại trong vụ án hình sự chỉ được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu thì theo BLTTHS 2015, bị hại còn có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án đồng thời có quyền yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá các tài liệu, đồ vật đó. Trên thực tế, bị hại thậm chí đồng thời là nhân chứng trực tiếp của vụ án, do đó những ý kiến của bị hại về các chứng cứ, tài liệu, đồ vật có ý nghĩa quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định tính khách quan của các chứng cứ, tài liệu đồ vật có liên quan đến vụ án từ đó xác định các tình tiết trong vụ án hình sự.

- Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật (điểm d). BLTTHS 2015 cho phép bị hại cũng như đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ những trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội (khoản 1 Điều 207 BLTTHS 2015).

- Quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án (điểm đ). Quyền này giúp bị hại nắm bắt được các tình tiết của vụ án đã được làm rõ hay chưa, như thế nào, có ảnh hưởng gì đến quyền lợi của mình không… để kịp thời can thiệp. Cụ thể như khi Cơ quan điều tra ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra, Quyết định phục hồi điều tra và khi kết thúc điều tra; khi Viện kiểm sát ra các quyết định như Quyết định truy tố bị can trước Tòa án, Quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, Quyết định phục hồi vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm thông báo cho bị hại.

- Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật (điểm e). Khi có căn cứ để cho rằng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như điều tra viên, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án không vô tư trong khi tiến hành tố tụng và người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật không vô tư trong khi tham gia tố tụng thì bị hại có quyền đề nghị thay đổi họ.

- Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường (điểm g). Bị hại có quyền đề nghị hình phạt đối với người phạm tội để các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng xem xét sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xác định sự thật khách quan của vụ án. Bị hại cũng có quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại và các biện pháp bảo đảm bồi thường thiệt hại do tội phạm xâm phạm.

- Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa (điểm h). Mô hình tố tụng tranh tụng được thể hiện rõ nét thông qua việc tham gia, tranh tụng tại phiên tòa. Đây cũng được coi là phương thức hữu hiệu nhất trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị hại. Khi xem biên bản phiên tòa, bị hại có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản để bảo đảm thể hiện đúng diễn biến phiên tòa thực tế.

- Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình (điểm i). Bị hại có quyền lựa chọn tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ cho mình. Trường hợp nhờ người khác bảo vệ thì phải đăng ký, thực hiện theo quy định về đối tượng, quyền và nghĩa vụ…

- Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này (điểm k). Bị hại có có thể được tham gia vào một số hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Điều này giúp bị hại hoàn toàn chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, họ có được thông tin từ các cơ quan tiến hành tố tụng mà không phải chờ đến khi được thông báo, tạo nền tảng cho việc tự bảo vệ quyền lợi của mình.

- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa (điểm l). Đây là quyền rất thiết thực cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ khi họ báo cáo về nguy cơ họ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những hành vi đe dọa họ nhằm gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm thực hiện những biện pháp hợp lý để giải quyết những mối lo ngại về an ninh cho các bị hại, xác định tính chất và phạm vi của các biện pháp, đánh giá mức độ nguy hiểm và đưa ra những lựa chọn hợp lý để giải quyết các mối đe dọa với nguồn lực sẵn có để đáp ứng quyền được bảo vệ của bị hại.

- Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án (điểm m). Trường hợp không đồng ý với phán quyết tại bản án, quyết định của Tòa án, bị hại có quyền kháng cáo để xét xử phúc thẩm vụ án, bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử, qua đó khắc phục sai sót, bảo vệ đến cùng quyền lợi của mình.

- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm n). Bị hại có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Quyết định, hành vi bị khiếu nại; chủ thể bị khiếu nại, chủ thể giải quyết khiếu nại; trình tự khiếu nại thực hiện theo quy định.

- Các quyền khác theo quy định. Ngoài những quyền nêu trên, bị hại còn có thể thực hiện một số quyền khác được quy định như quyền yêu cầu khởi tố, quyền xin hoãn, vắng mặt tại phiên tòa… Trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại, bị hại có quyền trình bày lời buộc tội.

2. Một số hạn chế, bất cập

2.1. Chưa phân định rõ ràng giữa quyền của bị hại và người đại diện của bị hại

Bị hại và người đại diện của bị hại là hai chủ thể tham gia tố tụng khác nhau, họ là những người khác nhau nhưng cùng tham gia tố tụng và cùng hướng đến mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Nên cả bị hại và người đại diện hợp pháp của họ đều cần phải được trao các quyền tố tụng để thực hiện mục đích đó. Quyền năng của họ là độc lập nhau, không phụ thuộc nhau, có tính tương hỗ với nhau, nhất quán với nhau và đặc biệt không được loại trừ nhau. Trong khi đó, tại Điều 62 BLTTHS 2015 thì khoản 2 quy định “Bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền…”, khoản 3 quy định “Trường hợp vụ án… thì bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày…”. Quy định này sử dụng cụm từ “hoặc”, vốn là từ dùng để phân tách hai vế có tính đối lập và bù trừ. Hoặc là thế này, hoặc là thế kia, nếu đã thế này thì sẽ không có thế kia. Hệ quả là dẫn đến quan điểm sai lầm là các quyền này chỉ được thực hiện thông qua một trong hai chủ thể, hoặc là bị hại, hoặc là người đại diện của bị hại.

Chưa hết, tại khoản 5 Điều 62 BLTTHS 2015 quy định “Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này”. Quy định như vậy có thể được hiểu là trong các trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì chỉ có người đại diện được thực hiện quyền của bị hại, còn bị hại thì không. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của họ trong các vụ án có cả bị hại và người đại diện của bị hại tham gia tố tụng. Cần phải hiểu rõ rằng, việc bị hại thực hiện quyền không phụ thuộc, không bị ảnh hưởng hay bị hạn chế bởi việc thực hiện quyền của người đại diện của bị hại và ngược lại. Do đó, cần sửa đổi các quy định này.

2.2. Chưa bảo đảm quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ

Quyền “Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này” được ghi nhận tại điểm a khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015. Đây là quyền rất quan trọng của bị hại, đồng thời là trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng phải thông báo và giải thích cho họ biết rằng họ có những quyền và nghĩa vụ gì khi tham gia tố tụng. Bởi lẽ, không phải ai cũng biết, thậm chí phần lớn bị hại đều không nắm được mình có những quyền và nghĩa vụ gì. Mà việc được biết lại là cơ sở, tiền đề để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Tuy nhiên, quy định về quyền này có một số vấn đề như sau:

Trước tiên, về phạm vi quyền được thông báo, giải thích. Quy định hiện hành nêu rõ “quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này”, và tại điểm o khoản 2 quy định “các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Như vậy, phải hiểu việc thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị hại phải bao gồm phạm vi “các quyền khác theo quy định”. Tuy nhiên, trên thực tế, các chủ thể tiến hành tố tụng lại chỉ thông báo, giải thích mang tính hình thức, chung chung, qua loa các quyền được quy định tại khoản 2, trong đó thông báo cho bị hại rằng “có quyền khác theo quy định pháp luật” mà không thông báo, giải thích các quyền đó là gì. Bị hại với nhận thức pháp luật, ý thức pháp luật hạn chế nên việc chỉ nghe phổ biến qua loa là không thể bảo đảm, cũng rất ít trường hợp hỏi lại hay yêu cầu được giải thích. Đa phần họ chấp nhận, thậm chí bỏ qua, từ đó làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền lợi của họ.

Tiếp theo, về cách thức thông báo, giải thích thì hiện nay chưa có quy định. Thông thường, Cơ quan điều tra là chủ thể thực hiện, thông qua việc lập biên bản ghi nhận việc thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, quá trình tố tụng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn có sự tham gia của các chủ thể khác nhau. Thực tế cho thấy, ở giai đoạn truy tố Viện kiểm sát không thực hiện việc thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị hại; ở giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án cũng không thực hiện mà chỉ thực hiện tại phiên tòa. Trong khi đó, ở giai đoạn truy tố hay chuẩn bị xét xử, bị hại vẫn có một số quyền không được liệt kê tại Điều 62; quyền yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa. Nếu không được thông báo, giải thích thì họ sẽ không biết và không có cơ sở để thực hiện đúng, đủ quyền pháp định của mình.

2.3. Chưa quy định phạm vi quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại

Đối với một số tội phạm nhất định, chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại. Bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án, đồng thời cũng có quyền rút yêu cầu này. Khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã rút yêu cầu khởi tố trái ý muốn của họ do bị ép buộc, cướng bức”. Như vậy, bị hại được quyền rút yêu cầu khởi tố ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng, và hệ quả của việc này là vụ án phải được đình chỉ. Trường hợp bị hại rút yêu cầu trước khi Tòa án ra bản án sơ thẩm thì việc đình chỉ vụ án là rất dễ dàng. Tuy nhiên, ta xét các trường hợp sau đây:

- Trường hợp đã có bản án sơ thẩm, đang trong thời gian kháng cáo, kháng nghị (hiện tại chưa có kháng cáo, kháng nghị): Trường hợp này, nếu bị hại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án có được được đình chỉ hay không? Nếu đình chỉ thì bản án sơ thẩm đã tuyên phải giải quyết như thế nào? Có thể hủy bản án này hay không? Nếu có thể thì cơ quan nào hủy? Hình thức hủy là gì? Nếu không thể hủy thì bản án sẽ có hiệu lực, quyền rút yêu cầu khởi tố của bị hại không được thực hiện.

- Trường hợp đã có bản án sơ thẩm, có kháng cáo đề nghị tuyên bị cáo vô tội: Trường hợp này, bị cáo cho rằng mình không phạm tội, không đồng ý với việc buộc tội và kết tội của cấp sơ thẩm. Do đó, việc bị hại rút yêu cầu khởi tố và vụ án được đình chỉ không giải quyết bản chất của việc kháng cáo. Vì vậy, việc quy định vụ án phải được đình chỉ là không phù hợp.

- Trường hợp đã có bản án sơ thẩm, có kháng nghị của Viện kiểm sát: Nếu kháng nghị của Viện kiểm sát đề nghị đổi tội danh hoặc thay đổi khung hình phạt mà tội danh hoặc khung hình phạt mới không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại, thì việc bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố và vụ án được đình chỉ là không phù hợp, dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm, bỏ lọt người phạm tội.

Như vậy, khi thực tế xảy ra một trong ba trường hợp trên thì việc giải quyết hệ quả pháp lý còn rất lúng túng và thiếu thống nhất bởi pháp luật chưa có quy định cụ thể. Chưa hết, khoản 3 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định khi bị hại (hoặc người đại diện) đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp bị ép buộc, cưỡng bức. Vậy, trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố do bị lừa dối, sau khi rút yêu cầu mới biết mình bị lừa dối thì cũng không được yêu cầu lại. Điều này là chưa bảo đảm quyền lợi cho bị hại.

2.4. Quyền kháng cáo bị ràng buộc bởi quyền sửa bản án sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 357 BLTTHS 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản nặng hơn… (gọi chung là làm xấu hơn tình trạng của bị cáo) nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của bị hại. Trong khi đó, khoản 1 Điều 331 BLTTHS 2015 quy định “Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Như vậy, bị hại và nguuời đại diện của bị hại đều có quyền kháng cáo về bản án, quyết định sơ thẩm, được quy định trong cùng một điểm với phạm vi kháng cáo như nhau. Như đã phân tích, bị hại và người đại diện là hai người khác nhau, nhưng cùng tham gia tố tụng và cùng hướng đến mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Do đó, việc quy định cả hai đều có quyền kháng cáo giống nhau là phù hợp. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm lại chỉ có thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo nếu có “kháng cáo của bị hại”. Vậy, nếu chỉ có kháng cáo của người đại diện của bị hại thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có được sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo hay không? Điều này vừa gây ra sự thiếu thống nhất trong các quy định của BLTTHS, vừa gây lúng túng cho Tòa án khi áp dụng trên thực tế.

2.5. Không quy định về quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án

Khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015 quy định theo hướng liệt kê rất nhiều quyền của bị hại, người đại diện của bị hại nhưng không quy định về quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Rà soát các quy định của BLTTHS 2015 cũng không có quy định nào khác nhắc đến quyền này. Phải hiểu rằng, đây là quyền cơ bản và rất quan trọng, trong tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng minh thu thập chứng cứ thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, độc lập với bị hại, bị hại là người bị thiệt hại, rất cần được tiếp cận với những tài liệu có trong hồ sơ. Đồng thời, việc tiếp cận này chính là cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện các quyền khác như trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, khiếu nại…

Mở rộng thêm quy định tại các Điều 73 và 84 BLTTHS 2015, khi quy định về quyền của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thì hai chủ thể này đều có quyền “đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu có trong hồ sơ vụ án”. Điều này nhằm bảo đảm cho việc tiếp cận, nghiên cứu để hướng đến mục đích bảo vệ cho bị cáo, bị hại. Trong khi người bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại được trao quyền này thì bản thân bị hại lại không được quy định mặc dù bị hại có quyền “tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ”. Trường hợp bị hại không nhờ người khác mà tự mình bảo vệ, họ rất cần được đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu có trong hồ sơ.

Do đó, việc pháp luật hiện hành không quy định bị hại có quyền “đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu có trong hồ sơ” là không phù hợp.

2.6. Bị hại không được nhận cáo trạng và kết luận điều tra

Theo quy định tại các Điều 232 và 240 BLTTHS 2015, trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra thì Cơ quan điều tra phải thông báo cho bị hại; trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản cáo trạng thì Viện kiểm sát phải thông báo cho bị hại. Khi so sánh với bị cáo, người bào chữa, họ đều được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát giao, gửi bản kết luận điều tra, bản cáo trạng. Điều này là không phải bàn cãi bởi hai văn bản này chứa đựng toàn bộ nội dung buộc tội, toàn bộ hậu quả pháp lý bị cáo đang bị cáo buộc. Tuy nhiên, đối với bị hại thì chỉ quy định chung chung “được thông báo”. Vậy nội dung thông báo là gì? Căn cứ vào quy định của điều luật và thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chỉ dừng lại ở việc thông báo cho bị hại biết “đã kết thúc điều tra đề nghị truy tố” và “đã truy tố bị cáo ra Tòa án”. Nội dung thông báo hết sức ngắn gọn khiến bị hại không nắm bắt được cụ thể nội dung cần thiết. Có rất nhiều trường hợp bị hại gửi đơn kiến nghị, đơn yêu cầu đến Tòa án để hỏi các tình tiết liên quan đến diễn biến sự việc như “vì sao anh A. đang đi làm nhưng lại bị thương ở ngoài đơn vị”, “chị C. có tư cách gì mà lại có mặt tại hiện trường và gây thương tích cho anh A.”… Vì sao họ phải hỏi, bởi vì họ không được thông báo những nội dung cụ thể, cũng không được gửi kết luận điều tra hay bản cáo trạng.

Có quan điểm cho rằng, vì bản kết luận điều tra và bản cáo trạng về bản chất là hình thức của việc cáo buộc một người về hành vi phạm tội mà họ thực hiện, trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý của người phạm tội đối với nhà nước chứ không phải đối với bị hại nên bị hại không liên quan và không cần thiết phải được nhận hai văn bản này. Đồng ý khách thể mà tội phạm xâm phạm là các quan hệ xã hội được nhà nước bảo vệ, tội phạm xâm phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự trước nhà nước. Tuy nhiên, bị hại đang là người bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội gây ra; họ phải chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, họ phải được biết diễn biến sự việc, nguyên nhân, hậu quả, mục đích… để có sự so sánh, đối chiếu, khiếu nại, xác định mức độ, yêu cầu bồi thường…

Vì vậy, quy định như hiện nay là rất bất cập và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bị hại trong việc tự bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của mình đã và đang bị tội phạm xâm hại.

2.7. Bị hại không được quyền hỏi bị cáo tại phiên tòa

Theo quy định tại khoản 2 Điều 307 BLTTHS, người tham gia tố tụng tại phiên tòa (bao gồm bị hại) có quyền đề nghị Hội đồng xét xử hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Điều 309 BLTTHS 2015 về hỏi bị cáo cũng quy định “người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị Hội đồng xét xử hỏi thêm về những tình tiết có liên quan đến họ”. Như vậy, bị hại chỉ được quyền “đề nghị Hội đồng xét xử hỏi bị cáo” mà không được “trực tiếp hỏi bị cáo” mà không phụ thuộc vào việc Chủ tọa phiên tòa có đồng ý hay không. Trong khi đó, Điều 310 BLTTHS 2015 quy định “bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan khi được Chủ tọa phiên tòa đồng ý”. Trong trường hợp bị hại, đương sự, thấy có vấn đề liên quan đến vụ án chưa được làm rõ hoặc có những mâu thuẫn thì họ sẽ có hai lựa chọn: (i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi về những nội dung đó; (ii) Thông qua người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp để thể hiện quan điểm của mình. (i) Đối với lựa chọn thứ nhất, bị hại và đương sự sẽ đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm những tình tiết có liên quan đến họ (khoản 2 Điều 309). Đề nghị này có thể được chấp nhận hoặc không. Nếu không được chấp nhận thì họ sẽ không có cơ hội làm rõ những khúc mắc của mình (trong trường hợp yêu cầu, đề nghị là chính đáng). Còn nếu được chấp nhận thì việc truyền tải thông tin cần được hỏi giữa bị hại, đương sự và chủ toạ phiên tòa cũng sẽ khó thể hiện rõ ý, đôi khi mất nhiều thời gian. (ii) Đối với lựa chọn thứ hai, pháp luật cho phép người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên, việc quy định quyền gián tiếp như thế này, theo quan điểm của tác giả là “khá cồng kềnh”, mỗi lần có nhu cầu hỏi lại phải thông qua người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mà không chủ động trong việc tham gia xét hỏi. Không những thế, thực tiễn cho thấy, không phải vụ án hình sự nào cũng có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự. Chính vì vậy, quy định hiện hành là không hợp lý, nhất là trong trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Trong khi thủ tục xét hỏi giống như một cuộc điều tra công khai để thu thập chứng cứ, làm tiền đề cho việc tranh luận đạt hiệu quả mà pháp luật không quy định cho bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại quyền được xét hỏi là chưa hợp lý. Việc cho phép bị cáo hỏi trực tiếp, không cho phép bị hại hỏi trực tiếp càng làm tăng thêm sự thiếu cân bằng giữa hai bên chủ thể có lợi ích đối lập nhau.

3. Đề xuất, kiến nghị

Từ những hạn chế, bất cập nêu trên, tác giả đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật như sau:

Thứ nhất, sửa đổi các khoản 2 và 3 Điều 62 BLTTHS 2015 theo hướng bỏ từ “hoặc”, thay bằng “dấu phẩy”; cụ thể “Bị hại, người đại diện của bị hại có quyền…”; “Trường hơp vụ án… thì bị hại, người đại diện của họ trình bày…”. Bỏ đoạn đầu của khoản 5 Điều 62 BLTTHS 2015.

Thứ hai, sửa đổi điểm a khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015 thành “Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật này”. Bổ sung quy định về trách nhiệm thông báo của các cơ quan tiến hành tố tụng như sau: “Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị hại ngay sau khi lập, nhận hoặc thụ lý hồ sơ vụ án”.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung Điều 155 BLTTHS 2015 như sau:

“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1. “Giữ nguyên”

2. Trường hợp yêu cầu khởi tố rút trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án; trường hợp rút tại phiên tòa sơ thẩm thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ vụ án; trường hợp rút sau phiên tòa sơ thẩm mà không có kháng cáo, kháng nghị thì Viện kiểm sát kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án; trường hợp rút sau khi có kháng cáo, kháng nghị thì người kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trường hợp bị cáo kháng cáo đề nghị tuyên bị cáo vô tội hoặc Viện kiểm sát kháng nghị thay đổi tội danh, thay đổi khung hình phạt mà tội danh, khung hình phạt mới không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì không chấp nhận việc rút yêu cầu, Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án. Trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn do bị ép buộc, cướng bức, lừa dối thì vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3. Bị hại, người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức, lừa dối”.

Thứ tư, sửa đổi khoản 2 Điều 357 BLTTHS như sau: “Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại, người đại diện của bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể…”.

Thứ năm, bổ sung vào khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015 quy định “Bị hại có quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu có trong hồ sơ vụ án”.

Thứ sáu, sửa đổi khoản 4 Điều 232, khoản 2 Điều 240 BLTTHS 2015 theo hướng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải gửi bản kết luận điều tra, bản cáo trạng cho bị hại trong thời hạn quy định.

Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 307 BLTTHS 2015 như sau: “…Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị hại có thể hỏi bị cáo, người đại diện của bị cáo về các vấn đề có liên quan đến họ. Những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết có liên quan đến họ”.

VĂN LINH

Tòa án Quân sự khu vực Quân chủng Hải quân

Các tin khác