Người bào chữa trong tố tụng hình sự

10/09/2023 23:03 | 8 tháng trước

(LSVN) - Trong tố tụng hình sự, quyền bào chữa của người bị buộc tội có mối quan hệ chặt chẽ với người bào chữa, vì người bào chữa có vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội; góp phần cùng với cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của vụ án; khắc phục tình trạng truy tố, kết án oan sai, bỏ lọt tội phạm; đem lại cho nền tư pháp nước nhà sự công bằng, dân chủ; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa... Bài viết đi sâu phân tích những nội dung cơ bản liên quan đến chế định người bào chữa trong tố tụng hình sự.

Ảnh minh họa.

Quyền con người và quyền công dân là một trong những quyền căn bản nhất, được quan tâm và ghi nhận trong các văn bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong các quyền liên quan đến quyền con người và quyền công dân, chúng ta không thể không nói đến quyền tự bào chữa của người bị buộc tội cũng như quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Khoản 4 Điều 13 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Từ quy định của Hiến pháp năm 2013, chúng ta có thể khẳng định người bào chữa có vai trò rất quan trọng và là chủ thể không thể thiếu trong hoạt động tố tụng hình sự. Chính vì thế, pháp luật tố tụng hình sự cần phải có những quy định rõ ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, bảo đảm cho chủ thể này thực hiện đúng chức năng, vai trò của mình.

Về khái niệm bào chữa, quyền bào chữa

Trong tố tụng hình sự, nói đến việc bảo vệ quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân, quyền bất khả xâm phạm đến thân thể, trước hết phải nói đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Khi bị buộc tội, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa. Trên cơ sở cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội như sau: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Đây là một điểm mới thể hiện tính dân chủ của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, phù hợp với những đặc điểm của giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra.

Về khái niệm bào chữa và quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, có nhiều ý kiến giải thích khác nhau, tuy nhiên trong các văn bản pháp luật, chưa có một khái niệm hay định nghĩa thống nhất. Theo Từ điển tiếng Việt(1), “Bào chữa là dùng lý lẽ, chứng cứ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hoặc dân sự trước tòa, hoặc cho việc nào đó đang bị lên án”. Ở cách lý giải khác, tác giả Phạm Hồng Hải cho rằng: “Bào chữa là quyền của bị can, bị cáo được đưa ra các lý lẽ, chứng cứ, được đặt câu hỏi, được tranh luận trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử”. Theo tác giả Nguyễn Văn Tuân: “Quyền bào chữa là quyền tố tụng xuất hiện trên cơ sở thực hiện một trong những chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, chỉ thuộc người bị buộc tội”. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng quyền bào chữa là “tất cả các quyền mà pháp luật quy định để người bị buộc tội chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là điều kiện cần thiết để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.

Nhìn chung, các định nghĩa về bào chữa và quyền bào chữa trên đây mặc dù khác nhau về hình thức diễn đạt nhưng không khác nhau về nội hàm và thống nhất ở chỗ chỉ rõ bản chất của việc bào chữa, đó là những hoạt động gỡ tội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đồng thời góp phần xác định đúng sự thật khách quan của vụ án hình sự, bảo vệ công lý và công bằng của pháp luật. Có thể nói, quyền bào chữa là quyền hiến định của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa, hay nhờ luật sư bào chữa cho mình.

Thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là đối trọng lại buộc tội từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng buộc tội. Chính sự đối trọng này sẽ cho hoạt động tố tụng hình sự được công bằng, công lý, dân chủ, khách quan. Bởi vì “Có buộc tội mà không có bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều và kết buộc chứ không phải là tranh tụng. Tố tụng hình sự không thể được thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có đối trọng là chức năng bào chữa”(2).

Về khái niệm người bào chữa trong tố tụng hình sự

Khái niệm về người bào chữa, theo tố tụng hình sự Việt Nam có những đặc điểm cụ thể, chuyên biệt cần phải xem xét dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Theo PGS.TS Võ Khánh Vinh: “Người bào chữa là người tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết”. Với một quan điểm khác, tác giả Trần Văn Bảy cho rằng: “Người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.

Khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”. Theo quy định của điều luật này, muốn trở thành người bào chữa trong tố tụng hình sự, cần phải thỏa mãn hai điều kiện: được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định; được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. So với quy định về người bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có mở rộng thêm về người bào chữa là trợ giúp viên pháp lý nhằm hỗ trợ pháp lý cho người bị buộc tội thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý. Theo đó, khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý”.

Quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Nhằm bảo đảm cho người bào chữa thực hiện đúng chức năng quyền hạn của mình, bảo đảm sự công bằng, dân chủ và khách quan trong tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể quyền của người bào chữa như sau:

“(a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

(b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

(c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

(d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ này; (đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

(e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

(g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

(h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; 

(i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

(k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

(l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

(m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; 

(n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; 

(o) Kháng cáo bản án, quyết định của tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự”. 

Như vậy, so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một số quy định mới về quyền và cơ chế bảo đảm cho người bào chữa thực hiện tốt các quyền đó, cụ thể như sau:

Thứ nhất, có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.

Thứ hai, sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Thứ ba, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Thứ tư, đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.

Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội

Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Việc ban hành một chế định bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội là nguyên tắc trong việc thực hiện quyền con người của họ.

Góp phần bảo vệ công lý

Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình; giúp cho người bị buộc tội nắm được các quy định của pháp luật liên quan đến tội danh bị truy cứu trách nhiệm hình sự, các quy trình tố tụng, thời gian tố tụng, quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra, khi tham gia tố tụng, người bào chữa có thể phát hiện ra hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng để khiếu nại đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải.

Góp phần bảo đảm giải quyết vụ án một cách khách quan

Đối với những luật sư - với vai trò là người bào chữa - có chuyên môn nghiệp vụ cao, có phẩm chất chính trị tốt và đạo đức nghề nghiệp, khi tham gia tố tụng hình sự sẽ góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Qua việc thu thập tài liệu, chứng cứ khách quan, người bào chữa chứng minh sự vô tội của người bị buộc tội hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ của mình, đồng thời còn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật, tránh việc truy tố và kết án oan sai, bỏ lọt tội phạm, góp phần tích cực vào tiến trình cải cách tư pháp do Bộ Chính trị đề ra.

Góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và trật tự pháp luật

Quyền bào chữa của người bị buộc tội là một trong những quyền cơ bản của con người đã được hiến pháp quy định, cần được tôn trọng và bảo vệ. Vì vậy, việc thực hiện quyền bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự chính là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quy định của pháp luật đã ban hành. Theo đó, người có thẩm quyền và các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình bằng cách tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Bên cạnh đó, khi tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự, người bào chữa còn có quyền giám sát người và các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm túc thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

Thời điểm bắt đầu bào chữa trong tố tụng hình sự

Về thời điểm người bào chữa được tham gia tố tụng, Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định như sau: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì viện trưởng viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra”. Quy định này được coi là một điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cho phép người bào chữa không chỉ tham gia từ khi khởi tố bị can mà còn tham gia từ khi khởi tố vụ án. Theo đó, người bị buộc tội có thể thực hiện quyền bào chữa bất cứ thời điểm nào hoặc giai đoạn nào để người bào chữa giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Kết luận

Tố tụng hình sự có ba chức năng cơ bản là: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Ba chức năng này vừa tồn tại độc lập nhưng vừa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong hoạt động tố tụng hình sự. Nói đến chức năng bào chữa, chúng ta không thể không nhắc đến người bào chữa, quyền bào chữa của người bị buộc tội, bởi vì người bào chữa chính là chủ thể trực tiếp thực hiện chức năng bào chữa của tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.

Việc pháp luật tố tụng hình sự quy định địa vị pháp lý của người bào chữa không chỉ thể hiện tính nhân văn, tôn trọng quyền cơ bản của con người mà còn thể hiện tính dân chủ, khách quan của pháp luật Việt Nam; bảo đảm thực hiện quyền tự do, dân chủ của công dân. Hơn nữa, khi tham gia vào tố tụng hình sự, người bào chữa còn góp phần tuyền truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật.

(1) Hoàng phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2002.

(2) Nguyễn Thái Phúc (1999), Một số vấn đề về quyền công tố của viện kiểm sát, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học - Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, tr.22.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Văn Tuân, Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2015, tr.37.

2. Phạm Hồng Hải, Quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.19.

3. Trần Văn Bảy (2006), Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tài liệu hội thảo đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam), 2006.

4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2018, tr.48.

5. Võ Khánh Vinh, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.128-129.

NGUYỄN TRẦN VĨNH LINH

NCS Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP. Hồ Chí Minh