Ảnh minh họa.
Thực trạng phát triển án lệ của Tòa án nhân dân Tối cao
Về số lượng, kể từ khi Nghị quyết số 03/2015 có hiệu lực cho đến nay (ngày 06/9/2022), đã có 52 bản án, quyết định được lựa chọn, phát triển thành án lệ và được công bố. Tính trong khoảng thời gian từ ngày 15/7/2019 (ngày Nghị quyết số 04/2019 có hiệu lực) đến ngày 06/9/2022, chỉ có 29 bản án, quyết định được lựa chọn, phát triển thành án lệ. Tính theo năm, hàng năm, Tòa án nhân dân Tối cao tuyển chọn, công bố từ 03 đến 13 án lệ. Cụ thể, năm 2016 công bố 10 án lệ; năm 2017 công bố 06 án lệ; năm 2018 công bố 10 án lệ; năm 2019 công bố 03 án lệ; năm 2020 công bố 10 án lệ và năm 2021 công bố 13 án lệ(1).
Về loại án lệ, trong 52 án lệ hiện nay có 11 án lệ hình sự, 27 án lệ dân sự, 08 án lệ kinh doanh thương mại, 01 án lệ lao động, 02 án lệ tố tụng dân sự, 03 án lệ về tố tụng hành chính. Về Tòa án có phán quyết được phát triển thành án lệ, trong số 52 án lệ được công bố thì có 31 phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; 07 phán quyết của các tòa chuyên trách, tòa phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân Tối cao trước đây gồm: 01 của Tòa phúc thẩm tại Đà Nẵng, 05 của Tòa dân sự, 01 của Tòa hình sự; 10 phán quyết của Tòa án nhân dân cấp cao gồm: 07 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, 01 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và 02 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh; 03 phán quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm: 02 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh và 01 của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội và 01 phán quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện (TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa).
Nhìn chung, số lượng án lệ được định kỳ công bố, góp phần làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; góp phần hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử và về cơ bản, đáp ứng yêu cầu bổ khuyết hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân Tối cao có nhiều hoạt động nhằm tạo cơ chế thông thoáng trong việc tuyển chọn, công bố án lệ như: Chỉ đạo toàn hệ thống Tòa án nhân dân tăng cường đề xuất bản án, quyết định làm nguồn án lệ(2); tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo góp ý đối với việc phát triển án lệ(3); kịp thời biểu dương và định kỳ khen thưởng những tổ chức, cá nhân có đóng góp cho việc phát triển án lệ(4); thành lập Hội đồng tư vấn án lệ với sự tham gia của đại diện các cơ quan có liên quan và các nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng như uy tín nghề nghiệp; xây dựng và đưa vào hoạt động trang tin điện tử về án lệ để tạo diễn đàn bình luận, tiếp nhận và cung cấp thông tin phục vụ hoạt động phát triển án lệ; phối hợp với các chuyên gia pháp lý và những người có nhiều kinh nghiệm trong công tác xét xử tiến hành bình luận đối với các án lệ đã ban hành; nghiên cứu, biên tập và xuất bản 03 cuốn án lệ và bình luận án lệ, cấp phát tới tất cả các Thẩm phán trong toàn hệ thống Tòa án nhân dân; hoàn thiện Giáo trình Án lệ và thực tiễn xét xử(5); tổ chức tập huấn kỹ năng viết bản án để tạo nguồn bản án được tuyển chọn, phát triển thành án lệ…
Như vậy, từ khi án lệ được quy định là nguồn luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tòa án nhân dân Tối cao có nhiều hoạt động nhằm tăng cường sự phát triển của nguồn luật này, đáp ứng yêu cầu của đời sống pháp lý, nhất là khắc phục những hạn chế của văn bản quy phạm pháp luật, góp phần thực hiện thẩm quyền được hiến định, là bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Tuy nhiên, số lượng bản án, quyết định được đề xuất dự nguồn án lệ(6) và số lượng bản án, quyết định được phát triển thành án lệ trong thời gian qua khá khiêm tốn, chưa đáp ứng sự kỳ vọng của Tòa án nhân dân Tối cao và đáp ứng yêu cầu của đời sống pháp lý(7), ngay cả khi Nghị quyết số 04/2019 đã quy định thủ tục rút gọn trong quy trình tuyển chọn, công bố án lệ. Bên cạnh đó, trong thời gian qua, mặc dù công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế đã đạt được nhiều kết quả cụ thể, nổi bật nhưng chất lượng pháp luật trên một số lĩnh vực còn chưa đáp ứng yêu cầu; hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, tính ổn định chưa cao, một số quy định mâu thuẫn chồng chéo(8) và để nâng cao chất lượng thể chế, một trong những hoạt động mà Thủ tướng Chính phủ yêu cầu là “Tòa án nhân dân Tối cao đẩy mạnh việc lựa chọn, xây dựng, công bố án lệ để kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn mà chưa được pháp luật quy định cụ thể”(9).
Vì lẽ đó, cần có sự đánh giá về nguyên nhân dẫn đến số lượng án lệ được tuyển chọn, công bố làm án lệ chưa nhiều và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Nguyên nhân ảnh hưởng đến việc phát triển án lệ
Việc số lượng án lệ ở Việt Nam đến nay chưa nhiều, có thể nêu lên một số nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, quy định hiện hành về tiêu chí lựa chọn án lệ quá chặt chẽ
Theo Điều 2, Nghị quyết số 04/2019, án lệ được lựa chọn phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chí gồm: (1) có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; (2) có tính chuẩn mực; (3) có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Việc lựa chọn bản án, quyết định đáp ứng đầy đủ các tiêu chí nói trên để phát triển thành án lệ rất khó đáp ứng. Theo Nghị quyết số 04/2019, bản án, quyết định được lựa chọn phát triển thành án lệ không giới hạn bản án, quyết định của Tòa án nào. Đồng thời, một khi bản án, quyết định đã được phát triển thành án lệ sẽ ràng buộc tất cả các Tòa án, bất kể bản án, quyết định đó do Tòa án cấp nào ban hành. Tuy nhiên, để đáp ứng cả 03 điều kiện trên thì chỉ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hoặc thấp hơn là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao là có thể đáp ứng; còn bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện khó có thể đáp ứng yêu cầu này (chỉ đáp ứng tiêu chí số 1). Để một phán quyết của Tòa án cấp dưới (cấp tỉnh, cấp huyện) “có tính chuẩn mực”, “có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử” thuyết phục Tòa án cấp trên, thậm chí Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao là khó có thể thực hiện bởi những nguyên nhân sau: (1) Năng lực chuyên môn, trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán công tác tại Tòa án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh có hạn chế nhất định so với Thẩm phán công tác tại Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân Tối cao, mặc dù không thể phủ nhận có trường hợp năng lực, trình độ của Thẩm phán Tòa án cấp dưới có sự vượt trội so với mặt bằng chung nhưng số lượng rất hạn chế; (2) Khả năng trình bày một bản án, quyết định để có thể phát triển thành án lệ của Thẩm phán công tác tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện chưa có sự bảo đảm; (3) Thực tiễn số lượng phán quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được lựa chọn phát triển thành án lệ chiếm tỉ lệ rất thấp, chỉ 7,69% (04/52). Đây cũng là lý do mà trong số các án lệ được công bố mới chỉ có 03 bản án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (các án lệ số 22, 23 phát triển từ bản án, quyết định của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh; án lệ số 51 phát triển từ bản án của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội) và 01 bản án của Tòa án nhân dân cấp huyện (án lệ số 42 được phát triển từ bản án của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa) được lựa chọn.
Thứ hai, không có giới hạn về phạm vi ban hành công văn, giải đáp nghiệp vụ của Tòa án nhân dân Tối cao
Hàng năm, Tòa án nhân dân Tối cao ban hành rất nhiều công văn, giải đáp nghiệp vụ, mỗi văn bản lại chứa đựng nhiều vấn đề pháp lý, thậm chí đa lĩnh vực(10). Thực tế, không thể phủ nhận vai trò của công văn, giải đáp nghiệp vụ đối với việc bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, nhất là trong hệ thống Tòa án nhân dân (khắc phục kịp thời quy định có nhiều cách hiểu khác nhau; xử lý, áp dụng chính xác các quy định mâu thuẫn, chồng chéo; khắc phục cách hiểu sai tương tự; đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề mà phải áp dụng lẽ công bằng…). Đồng thời, các văn bản này phần lớn được lấy từ khó khăn, vướng mắc, bất cập, sai sót trong quá trình giải quyết vụ việc của các Tòa án. Xét ở mức độ nào đó, quy định trong các văn bản này cũng định hướng cho việc áp dụng pháp luật, giải quyết vụ việc tương tự trong hệ thống Tòa án nhân dân và là tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, việc không giới hạn phạm vi ban hành các loại văn bản này sẽ bao trùm cả những vụ án đã được Tòa án có thẩm quyền giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, các công văn, giải đáp nghiệp vụ dù có đúng, chính xác, hiệu quả đến đâu thì cũng chưa phải là nguồn luật, không có sự ràng buộc như án lệ. Đây là nguyên nhân làm cho việc lựa chọn bản án, quyết định để phát triển án lệ bị giới hạn.
Thứ ba, chưa có cơ chế miễn trừ trách nhiệm của Thẩm phán khi bản án, quyết định được tuyển chọn làm án lệ có sai sót
Với mỗi Thẩm phán, bản án, quyết định do bản thân tham gia ban hành được công bố làm án lệ là một vinh dự, niềm tự hào. Bởi vì, khi đó, giải pháp pháp lý đối với một vấn đề pháp lý gắn liền với sự việc cụ thể được thừa nhận rộng rãi. Trong thời gian qua, mặc dù Nghị quyết số 03/2015 và Nghị quyết số 04/2019 không quy định về cơ chế khen thưởng đối với Thẩm phán, Tòa án có bản án, quyết định được phát triển thành án lệ nhưng đây là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của Thẩm phán, xem xét khi vinh danh Thẩm phán, khen thưởng đột xuất.
Thực tiễn nguồn án lệ đối với bản án, quyết định, nhất là bản án, quyết định do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện ban hành được đề xuất thành án lệ không nhiều(11), có tỉ lệ thấp hơn rất nhiều so với lượng án mà hệ thống Tòa án nhân dân giải quyết hàng năm.
Về nguyên nhân, bên cạnh các Tòa án, đơn vị, cá nhân chưa tham gia vào công tác phát triển án lệ, nhiều Thẩm phán chưa thực sự quan tâm đến nâng cao chất lượng các bản án, quyết định dẫn đến một số bản án, quyết định được ban hành chưa bảo đảm tính chuẩn mực, không đáp ứng yêu cầu làm nguồn án lệ, số lượng bản án, quyết định được đề xuất làm nguồn án lệ còn hạn chế(12), còn có nguyên nhân chưa có cơ chế miễn trừ trách nhiệm của Thẩm phán khi bản án, quyết định được tuyển chọn làm án lệ có sai sót (có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc rút kinh nghiệm). Bởi vì, để bảo đảm các tiêu chí lựa chọn án lệ tại Điều 2, Nghị quyết số 04/2019, bản án, quyết định được lựa chọn phải mang tính đột phá, thoát ra nhận thức thông thường trong cách hiểu, vận dụng pháp luật, có sự khác biệt so với những phán quyết giải quyết vụ án đã tuyên, thể hiện sự mạnh dạn của Thẩm phán trong việc đặt quy định pháp lý vào tình huống cụ thể để đưa ra kết luận, đánh giá chuẩn xác.
Tuy nhiên, ở khía cạnh ngược lại, các phán quyết loại này thường tiềm ẩn những rủi ro, có thể bị đánh giá sai sót về nhận thức, năng lực, trình độ. Kéo theo đó, ở mức độ nhất định, Thẩm phán đã ban hành ra chúng có thể bị nhắc nhở rút kinh nghiệm, thậm chí bản án, quyết định đó có thể bị kháng nghị để khắc phục sai sót, ảnh hưởng đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ, khen thưởng, việc tái bổ nhiệm Thẩm phán sau khi kết thúc nhiệm kỳ.
Một số giải pháp để phát triển án lệ
Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung Điều 2, Nghị quyết số 04/2019 theo hướng, bản án, quyết định được lựa chọn, phát triển thành án lệ chỉ cần đáp ứng 01 trong 03 tiêu chí lựa chọn án lệ được quy định tại Điều 2, Nghị quyết này. Trong trường hợp giữ nguyên quy định phải bảo đảm cả 03 tiêu chí, kiến nghị bổ sung vào Nghị quyết số 04/2019 quy định giá trị thứ bậc của án lệ được phát triển từ bản án, quyết định do từng cấp Tòa án ban hành. Theo đó, án lệ được phát triển từ phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao có giá trị áp dụng chung trong toàn hệ thống Tòa án nhân dân; án lệ được phát triển từ phán quyết của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án Quân sự Trung ương có giá trị áp dụng đối với các Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án Quân sự Trung ương trở xuống; án lệ được phát triển từ phán quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án Quân sự quân khu có giá trị đối với các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án Quân sự quân khu trở xuống. Riêng bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án Quân sự khu vực thì không được tuyển chọn để phát triển thành án lệ.
Mặt khác, cần phân định ranh giới giữa việc ban hành công văn, giải đáp nghiệp vụ của Tòa án nhân dân Tối cao với việc đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành án lệ. Theo đó, sự giới hạn này có thể xác định thông qua ranh giới giữa đã có sự việc trên thực tế hay chưa. Nếu có sự việc đã được giải quyết trên thực tế và đủ cơ sở phát triển thành án lệ thì không ban hành công văn, giải đáp nghiệp vụ mà thay vào đó đề xuất bản án, quyết định phát triển thành án lệ; trường hợp sự việc đang được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đủ cơ sở phát triển thành án lệ thì có thể ban hành công văn, giải đáp nghiệp vụ để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
Để các Tòa án, nhất là Tòa án địa phương, Thẩm phán chủ động, mạnh dạn đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành án lệ, cần có sự miễn trừ trách nhiệm của Thẩm phán, Tòa án (như: không tính tỉ lệ khi tái bổ nhiệm, không xem xét khi đề xuất thi đua khen thưởng cho đơn vị Tòa án, cá nhân Thẩm phán…) khi bản án, quyết định được đề xuất, giới thiệu phát triển thành án lệ bị phát hiện sai, thậm chí bị kháng nghị hủy, sửa.
Như vậy có thể thấy, từ khi án lệ chính thức được thừa nhận là nguồn luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam cho đến nay, mặc dù Tòa án nhân dân Tối cao rất khẩn trương, tích cực, tạo mọi điều kiện thuận lợi về thể chế, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực phục vụ việc phát triển án lệ nhưng số lượng án lệ được phát triển chưa nhiều, chưa đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh trong khi các loại nguồn luật khác trong hệ thống pháp luật, nhất là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn tồn tại nhất định. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu thực trạng phát triển án lệ của Tòa án nhân dân Tối cao, chỉ ra nguyên nhân ảnh hưởng đến việc phát triển án lệ trong thời gian qua là vô cùng cần thiết, cấp bách. Với việc chỉ ra các nguyên nhân làm cho án lệ được công bố còn chưa nhiều, nguồn án lệ chưa phong phú và sớm nghiên cứu triển khai các giải pháp khắc phục nhằm góp phần hoàn thiện, phát huy giá trị của loại nguồn luật này trong thời gian tới.
(1) Xem: 08 quyết định về việc công bố án lệ của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao từ năm 2016 cho đến nay, gồm: Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016; Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016; Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017; Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06/11/2018; Quyết định số 293/QĐ-CA ngày 09/9/2019; Quyết định số 50/QĐ-CA ngày 25/02/2020; Quyết định số 276/QĐ-CA ngày 22/10/2020; Quyết định số 42/QĐ-CA ngày 12/3/2021; Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31/12/2021. (2) Trong đó, có thể kể đến Chỉ thị số 04/2016/CT-CA ngày 30/5/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao về tăng cường công tác phát triển và công bố áp dụng án lệ trong xét xử, Công văn số 146/TANDTC-PC ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân Tối cao về viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử; Công văn số 136/TANDTC-PC ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân Tối cao về công tác phát triển án lệ. (3) https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/chitiettin?dDocName=TAND169434, ngày 27/4/2021; https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/chitiettin?dDocName=TAND094734, ngày 09/12/2019. (4) Xem: Điều 6 Quyết định số 170/QĐ-TANDTC-TĐKT ngày 21/6/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao ban hành Quy chế khen thưởng đột xuất trong Tòa án nhân dân. (5) Xem: Báo cáo tổng kết công tác năm 2019 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2020 của các Tòa án của Tòa án nhân dân Tối cao. (6) Tính đến ngày 12/4/2021 đã có 1.021 bản án, quyết định của các Tòa án đã viện dẫn, áp dụng án lệ (xem: Bảo Thư, Hội thảo “Công tác phát triển án lệ”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/an-le/hoi-thao-%E2%80%9Ccong-tac-phat-trien-an-le%E2%80%9D, ngày 27/4/2021). (7) Vấn đề này được Tòa án nhân dân Tối cao kết luận tại Công văn số 136/TANDTC-PC ngày 13/8/2021 về công tác phát triển án lệ. (8) Xem: Thông báo số 273/TB-VPCP ngày 22/10/2021 của Văn phòng Chính phủ về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị của Chính phủ về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế. (9) Xem: Thông báo số 273/TB-VPCP ngày 22/10/2021 của Văn phòng Chính phủ về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị của Chính phủ về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế. (10) Chẳng hạn, Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn 22 vấn đề liên quan đến các lĩnh vực hình sự (05 vấn đề), tố tụng hình sự (04 vấn đề), dân sự (03 vấn đề), tố tụng dân sự (10 vấn đề). (11) Tính đến ngày 06/9/2022, tổng nguồn án lệ là 1.531, trong đó, hình sự 334, hành chính 136, dân sự 726, hôn nhân gia đình 143, kinh doanh thương mại 161, lao động 28; của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao 138, Tòa án nhân dân cấp cao 491, Tòa án Quân sự Trung ương 2, tòa chuyên trách Tòa án nhân dân Tối cao (trước đây) 306, Tòa án nhân dân cấp tỉnh 216, Tòa án nhân dân cấp huyện 376 (xem: Tổng số nguồn án lệ, https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/nguonanle, ngày 06/9/2022). (12) Các lý do này được Tòa án nhân dân Tối cao khẳng định tại Công văn số 136/TANDTC-PC ngày 13/8/2021 về công tác phát triển án lệ. |
Thạc sĩ THÁI CHÍ BÌNH
Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự những vấn đề lý luận và thực tiễn