Ảnh minh họa.
Nguyên tắc suy đoán vô tội trong các giai đoạn tố tụng hình sự
Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn khởi tố
Cụ thể, khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, các cơ quan có thẩm quyền phải kiểm tra, xác minh về nguồn tin về tội phạm. Và chỉ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự khi các nguồn tin này có đầy đủ các căn cứ, chứng cứ xác thực. Thực tế cho thấy, ở những thời điểm ban đầu, khi thông tin, tài liệu còn ít, việc xác định dấu hiệu phạm tội để quyết định việc khởi tố không đơn giản. Đặc biệt, đối với những vụ án cần tri thức khoa học, thời gian để chứng minh…Việc khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ có thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức. Ngược lại nếu không khởi tố vụ án sẽ bỏ lọt tội phạm.
Do đó, trong những trường hợp như vậy nên áp dụng tinh thần suy đoán có lợi cho những người bị tình nghi đó. Khi mà các căn cứ thông tin, tài liệu còn ít, chưa đủ để kết luận là có dấu hiệu phạm tội hay không thì nên suy đoán theo hướng có lợi. BLTTHS 2015 quy định một điều luật mới theo hướng có lợi, Điều 157 căn cứ không khởi tố vụ án hình sự, như: Không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm,... Đây là một trong những điểm tiến bộ thể hiện tinh thần suy đoán vô tội của BLTTHS 2015.
Về nghĩa vụ chứng minh, xác định có dấu hiệu tội phạm hay không trong giai đoạn này thuộc về trách các cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và một số cơ quan khác.
Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn điều tra
Trước tiên, đối với yêu cầu về trình tự thủ tục và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: Các quy định của BLTTHS 2015 chưa thể hiện rõ nét quy định này. Việc bảo vệ quyền tự do thân thể, quyền con người, quyền công dân, bảo đảm việc tạm giữ, điều tra được đúng đắn chủ yếu được thể hiện ở các điều: Điều 59 quy định về người bị tạm giữ; Điều 85 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự; Điều 86 thu thập chứng cứ. Trong các điều trên, Điều 230 về đình chỉ điều tra thể hiện rõ nét hơn yêu cầu này. Cụ thể, nếu đã hết thời hạn điều tra mà cơ quan điều tra không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra (điểm b, khoản 1, Điều 230).
Thứ hai, về nghĩa vụ chứng minh: Trong giai đoạn này, cơ quan có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của người bị tạm giữ, bị can là cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, thể hiện tại nghĩa vụ cơ quan điều tra trong thời hạn 12 giờ kể từ sau khi giữ hoặc nhận người bị giữ, bị bắt hoặc phạm tội quả tang thì phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Như vậy, khi không có căn cứ ra quyết định tạm giữ thì cơ quan điều tra phải trả tự do cho người vô tội.
Khoản 4, Điều 117 quy định: “Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện Kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ”. Khoản 3, Điều 118, Bộ luật quy định, trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện Kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Như vậy, việc trả tự do cho người bị tạm giữ có thể được thực hiện từ rất sớm, ngay trước khi ra quyết định tạm giữ hoặc khi đã có quyết định này. Việc trả tự do cho người bị tạm giữ khi xác định được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ mà không cần phải đợi đến khi hết thời hạn tạm giữ. Tuy nhiên, trong thực tế, không đơn giản là cứ bắt người rồi sau đó thấy không có căn cứ thì thả tự do vì như vậy đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín, hình ảnh, công việc của người bị bắt.
Thứ ba, tư duy logic, giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội: Yêu cầu nêu trên được thể hiện gián tiếp qua yêu cầu tại một số điều như khoản 1, Điều 114 (Cơ quan điều tra quyết định trả tự do cho người bị bắt); khoản 3, Điều 117 (Viện Kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ). Bên cạnh đó, trong trường hợp có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án. Như vậy, có thể hiểu khi không có căn cứ thì không được khởi tố. Đây cũng là cách giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn truy tố
Trước tiên, về yêu cầu người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. BLTTHS 2015 chưa có quy định cụ thể, thể hiện nguyên tắc này trong giai đoạn truy tố. Mặc dù vậy, các quy định về thời hạn quyết định truy tố (Điều 240), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 245), Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án (Điều 247, 248) tuy không quy định trực tiếp nguyên tắc suy đoán vô tội, nhưng có thể hiểu, tinh thần của nó đã xuyên suốt các quá trình tố tụng, trong đó có cả giai đoạn truy tố. Vì vậy, BLTTHS quy định chặt chẽ về thời hạn quyết định truy tố, việc đình chỉ vụ án, nội dung cáo trạng, yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung hồ sơ hồ sơ... để tránh trường hợp khởi tố sai người vô tội. Các điều này yêu cầu Viện Kiểm sát luôn đặt khả năng bị can là người vô tội (đình chỉ vụ án) hoặc nếu có tội thì phải chứng minh rõ và phải được thể hiện đầy đủ trong bản cáo trạng.
Thứ hai, về nghĩa vụ chứng minh: Trong giai đoạn này trách nhiệm chứng minh trước tiên thuộc về Viện Kiểm sát. Điều này được thể hiện rõ thông qua nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan này, thẩm quyền đình chỉ vụ án (Điều 248), trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 245). Tuy nhiên, trong Bộ luật không quy định rõ nếu trong quá trình chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát mà cơ quan điều tra phát hiện ra bị can vô tội thì cơ quan điều tra có thẩm quyền như thế nào. Vì vậy, khi sửa đổi BLTTHS cần tính đến vấn đề này.
Ngoài ra, để bảo đảm không truy tố oan người vô tội, Điều 168 BLTTHS quy định Viện Kiểm sát có quyền ra quyết định trả hồ hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.
Thứ ba, yêu cầu giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội: Về cơ bản, nội dung và tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện giống như giai đoạn điều tra. Khi không có các căn cứ theo quy định của BLHS, BLTTHS thì Viện Kiểm sát phải ra một trong một số các quyết định như sau; quyết định không truy tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ vụ án…
Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử
Đây là giai đoạn trung tâm của TTHS, quyết định việc bị cáo có tội hay không? BLTTHS hiện hành thể hiện nguyên tắc suy đoán vô tội rõ ràng trong các quy định pháp luật.
Trước tiên, về yêu cầu người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện ngay ở thẩm quyền của Thẩm phán. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định Trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung được (điểm a, khoản 1, Điều 280). Đây là trường hợp thiếu chứng cứ để chứng minh người đó có tội hay không có tội tại phiên tòa... và cần phải xác định lại sự việc phạm tội. Điều này giúp vụ án được giải quyết đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ loạt tội phạm. Cùng với đó là một số quyết định đình chỉ vụ án (Điều 282); Viện Kiểm sát rút quyết định truy tố (Điều 285). Khi Viện Kiểm sát xác định không có sự việc phạm tội xảy ra, hành vi chưa cấu thành tội phạm… thì tiến hành yêu cầu hoặc ra một số quyết định như trên để bảo đảm được quyền con người của họ.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định rõ trong các phiên tòa xét xử hình sự thì bị cáo được mang trang phục bình thường. Đây là xem là một trong những nội dung thể hiện tính nhân văn, công bằng của pháp luật đối với người bị buộc tội. Trước khi có quy định này, bị cáo ra tòa phải mặc trang phục của phạm nhân, như vậy là trái với nguyên tắc suy đoán vô tội: Người bị buộc tội không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tạo tâm lý không tốt, áp lực cho người bị buộc tội lẫn thân nhân của họ.
Ngày 28/7/2017, Chánh án TAND Tối cao đã ký ban hành Thông tư 01/2017/TT-TANDTC, quy định về phòng xử án. Một trong những nội dung đáng chú ý là bục khai báo sẽ được thay thế cho vành móng ngựa. Đây là một cải cách đột phá, mang tính nhân văn, đề cao nguyên tắc “suy đoán vô tội” và phù hợp với quy định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Thực tiễn xét xử ở nước ta cho thấy, đa số mọi người định kiến rằng bất cứ ai đứng trước vành móng ngựa đều bị hiểu là có tội và phải bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc nên đối xử với họ như với người có tội. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật, bị cáo trước khi bị tuyên án thì vẫn được coi là chưa có tội để việc xét xử đảm bảo tính khách quan.
Thứ hai, về đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa: BLTTHS 2015 đã bổ sung nhiều quy định liên quan nhằm đảm bảo cho bên buộc tội và gỡ tội được thực hiện quyền tranh tụng. Cho phép các bên buộc tội và gỡ tội có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước toà. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan. Cho phép bị cáo có quyền trình được bày ý kiến về bản luận tội và đưa ra đề nghị của mình (Điều 320). Điều 218 BLTTHS 2015 đã thể hiện rõ nguyên tắc tranh tụng ở việc quy định thủ tục đối đáp trong đó bị cáo có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Viện Kiểm sát và đưa ra đề nghị của mình. Điều luật bắt buộc Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến. Đây là trách nhiệm của bên buộc tội tại phiên tòa phải tranh luận toàn diện, đầy đủ bình đẳng với bên gỡ tội, không được lảng tránh hoặc trả lời một cách áp đặt và thiếu trách nhiệm kiểu như: “Giữ nguyên quan điểm truy tố” mà không đưa ra lập luận để bảo vệ quan điểm buộc tội của mình.
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc rất quan trọng đó là nguyên tắc đảm bảo tranh tụng tại phiên phiên tòa. Đây là cơ sở quan trọng để Bộ luật này có sửa đổi, bổ sung các quy định về phiên tòa hình sự theo hướng tăng cường tranh tụng nhằm đảm bảo trước hết là xác định được sự thật của vụ án tại phiên tòa và làm cơ sở cho Tòa án ra bản án dựa trên cơ sở là kết quả tranh tụng tại phiên tòa đúng theo tinh thần cải cách tư pháp.
Thứ ba, khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án thì người bị buộc tội không bị coi là có tội. Nội dung này nhấn mạnh bản án có hiệu luật pháp luật là văn bản cuối cùng để có thể xác định một người có tội hay không có tội. Bản án hình sự theo quy định pháp TTHS là một văn bản pháp lý do chỉ do Tòa án ban hành đối với một người nào đó có hành vi phạm tội, và tuyên bố một người phạm tội hoặc không phạm tội. Đây là một văn bản pháp lý có tác động, ảnh hưởng đến quyền con người của người bị buộc tội, do đó một đòi hỏi đặt là Bản án cần phải được ghi nhận rõ ràng các căn cứ phạm tội cũng như căn cứ không phạm tội… (Điều 260 BLTTHS 2015). Với nhận thức như vậy mới tránh được những bản án tuyên rất “lửng lơ” kiểu như: Bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội… “không đủ căn cứ để kết tội bị cáo về tội hoặc hành vi của bị cáo không đủ yếu tố cấu thành tội phạm…và ... Tuyên như vậy rất khó xác định bị cáo có tội hay không có tội, oan hay không oan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền suy đoán vô tội cũng như các quyền lợi khác của bị cáo. Trường hợp bị cáo không phạm tội thì trong bản án cũng phải nêu những cho rằng bị cáo không phạm tội và phương hướng giải quyết sau đó như (khôi phục danh sự hay xin lỗi công khai).
Những căn cứ để tuyên bị cáo không phạm tội cần được hiểu rộng hơn, không chỉ là có đủ chứng cứ và đủ căn cứ pháp lý tuyên bị cáo không phạm tội mà còn là cả những trường hợp không đủ căn cứ chứng minh bị cáo có tội, có nghi ngờ về chứng cứ cũng như pháp luật để chứng minh bị cáo có tội. Điều này phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội khi trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng và mọi nghi ngờ về chứng cứ và pháp luật phải giải quyết có lợi cho bị can, bị cáo. Nội dung này được thể hiện khá rõ tại khoản 1 Điều 320 quy định về thẩm quyền của kiểm sát viên: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội.”. Còn khoản 4 Điều 326 quy định về việc nghị án: “Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì HĐXX tuyên bị cáo không có tội”. BLTTHS không quy định rõ căn cứ này là gì, nhưng có thể hiểu theo nghĩa rộng là trong trường hợp mọi nghi ngờ khi giải thích và áp dụng pháp luật đều phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
BLTTHS 2015 quy định Bản án hình sự phải dựa vào chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đây là một trong những quy định biểu hiện cụ thể, trực tiếp nhất để đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội.
Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực khi hết thời hạn mà không có kháng cáo kháng nghị và Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi HĐXX tuyên án. Như vậy, mặc dù tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã có bản án kết tội nhưng bị cáo vẫn có quyền được suy đoán vô tội và phải được đối xử như người bình thường khi có đơn kháng cáo, kháng nghị. BLTTHS quy định về việc bổ sung, xem xét chứng cứ tại phiên toà phúc thẩm. Theo đó, tại phiên toà phúc thẩm, Viện Kiểm sát, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác vẫn có quyền bổ sung chứng cứ. Quy định này tiếp tục đảm bảo quyền chứng minh sự vô tội của bị cáo nhằm đảm bảo cho xét xử phúc thẩm được khách quan, toàn diện và chính xác. Bản án hình sự phúc thẩm phải căn cứ cả vào những chứng cứ mới và những chứng cũ.
Đánh giá pháp luật TTHS trong việc thể hiện nội dung, tinh thần nguyên tắc suy đoán vô tội
Hiện thực hóa Hiến pháp 2013, BLTTHS năm 2015 đã có những quy định tiến bộ thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội. So với các quy định Hiến pháp và BLTTHS cũ trước đây, tinh thần và nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được thể hiện rõ nét hơn và được cụ thể hóa trong BLTTHS 2015. Với việc ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc cơ bản, pháp luật TTHS đã gần đi đến một nền tư pháp công bằng, bảo đảm các giá trị quyền con người. Thể hiện được tinh thần chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Ngày một quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan THTT, phân định rõ ràng chủ thể buộc tội và chủ thể gỡ tội tạo sự căn bằng trong hoạt động tố tụng. Coi trọng hơn hoạt động tranh tụng trong xét xử để đảm bảo các bên được bình đẳng. Quan trọng hơn, pháp luật TTHS nước ta đã thật sự ngày một được hoàn thiện hơn khi có sự tiếp thu tư tưởng cũng như nội dung của một số điều ước, công ước quốc tế liên quan. Tạo ra sự phù hợp, hài hòa của pháp luật TTHS đối với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta.
Bên cạnh những mặt đạt được pháp luật TTHS cũng còn tồn tại một số hạn chế nhất định, có ảnh hưởng đến việc thể hiện tinh thần và nội dung của một số Điều luật, cụ thể là nguyên tắc suy đoán vô tội.
Một là, về mô hình tố tụng, như đã nói: Mô hình TTHS ở nước ta hiện nay là mô hình TTHS thẩm vấn, kết hợp với tranh tụng, có thể nói ở hiện tại đây là một mô hình phù hợp với thể chế, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở nước ta. Bảo đảm được sự ổn định của Nhà nước, tuy nhiên xét dưới góc độ nguyên tắc suy đoán vô tội thì mô hình trên chưa thể hiện hết được tinh thần, nội dung cũng như phạm vi của suy đoán vô tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội chỉ phát huy hiểu quả cao khi áp dụng với mô hình tranh tụng triệt để.
Hai là, một số quy định về chứng minh, chứng cứ: Các quy định về vấn đề này còn nhiều điểm hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến quá trình tự chứng minh vô tội của người bị buộc tội. BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 quy định, thẩm quyền đánh giá, sử dụng chứng cứ trong vụ án hình sự hoàn toàn thuộc về người tiến hành tố tụng nhưng Bộ luật này lại không quy định cụ thể về việc đánh giá, sử dụng chứng cứ không phải do cơ quan THTT thu thập mà chỉ đưa ra yêu cầu chung là “Người có thẩm quyền THTT trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án”.
Bên cạnh đó, hoạt động thu thập chứng cứ bằng việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa: Quy định này rất hình thức bởi thực tiễn, rất hiếm trường hợp Luật sư đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là cơ quan, tổ chức Nhà nước cung cấp được các tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể tiến hành tố tụng trong việc đánh giá xem Luật sư đã sử dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng không thể thu thập chứng cứ được hay chưa.
Ba là, trường hợp pháp nhân phạm tội: Đây là một trong những vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được hướng dẫn cụ thể. Theo quy định điều luật thì chủ thể ở đây là “người bị buộc tội”, như vậy pháp nhân phạm tội không được quy định cụ thể thì có áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội đối với pháp nhân hay không?
ĐẶNG ĐÌNH THÁI
Tòa án Quân sự Quân khu 4
Tội “Thao túng thị trường chứng khoán”: Lý luận và thực tiễn