Ảnh minh họa.
Thông qua mạng xã hội, Nguyễn Thị Thanh M. quen biết một người phụ nữ tên A. (hiện không xác định được) và biết A. làm được thẻ tín dụng của Ngân hàng B. Ngân hàng B. có chương trình phát triển thẻ tín dụng cho khách hàng sở hữu căn hộ - biệt thự cao cấp. Do cần tiền tiêu xài cá nhân và bản thân đã bị nợ xấu, không đủ điều kiện mở thẻ tín dụng nên M. nhờ A. làm thủ tục để mở thẻ tín dụng của Ngân hàng B. A. đã chuẩn bị các giấy tờ mang thông tin giả của M. rồi đưa M. đến gặp Nguyễn Thị Thúy H. là nhân viên của Ngân hàng B. để làm thủ tục đăng ký mở thẻ tín dụng gồm: 01 Giấy CMND mang tên Nguyễn Thị Phương M.; 01 sổ hộ khẩu chủ hộ mang tên Nguyễn Thị Phương M.; 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất là căn hộ Chung cư cao cấp mang tên Nguyễn Văn T. – chồng M. và Nguyễn Thị Phương M.
Để tạo sự tin tưởng, M. nhờ một người đàn ông tên P. (môi giới cho thuê căn hộ) mượn được 01 căn hộ tòa R. khu đô thị C. rồi hẹn H. đến căn hộ trên với mục đích để H. tin tưởng. Vài ngày sau, H. gặp M. tại căn hộ trên để làm hồ sơ mở thẻ tín dụng. Quá trình hoàn thiện thủ tục mở thẻ, M. ký vào hồ sơ mở thẻ tín dụng với tên là Nguyễn Thị Phương M. Sau đó, H. hẹn gặp M. để đưa thẻ tín dụng của Ngân hàng B. có hạn mức 300 triệu đồng. Tại đây, M. đã lên mạng xã hội liên lạc với Phạm Thị D. làm dịch vụ quẹt thẻ tín dụng để rút số tiền còn lại. M. đưa thẻ tín dụng cho D. và được D. chuyển lại số tiền 243.400.000 đồng vào tài khoản ngân hàng của M. mà trước đó M. đã nhờ A. làm hộ tài khoản. M. trả cho D. 6.083.000 đồng công rút tiền hộ.
Quá trình điều tra xác định được 01 Giấy CMND và 01 sổ hộ khẩu mà M. đã sử dụng để làm thủ tục mở thẻ tín dụng Ngân hàng B. là của người khác; tại địa chỉ nơi cư trú mà M. đã cung cấp cho Ngân hàng B. trong quá trình làm thẻ tín dụng không có ai tên là Nguyễn Thị Thanh M.; 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất không được Sở TN&MT cấp.
Tại biên bản đối chất với Nguyễn Thị Thúy H. thì H. khai A. chụp ảnh các giấy tờ của M. gửi trước cho H. để điền thông tin vào hồ sơ mở thẻ, khi M. dẫn H. tới căn hộ thuộc tòa R. khu đô thị C. thì M. đưa bản gốc có dấu đỏ để đối chiếu và các bản ảnh in các giấy tờ trên có đóng dấu “Đã đối chiếu với bản gốc”. Ngoài ra, theo lời khai của Phạm Thị D. thì M. đã gửi ảnh chụp CMND cho D. để đối chiếu thông tin trên thẻ tín dụng, thấy đúng thông tin nên D. mới đồng ý rút tiền cho M.
Hiện nay, có các quan điểm khác nhau với tội danh của Nguyễn Thị Thanh M., cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hành vi của Nguyễn Thị Thanh M. chỉ cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Bởi lẽ, M. chỉ ký vào hợp đồng mở thẻ tín dụng chứ không trực tiếp sử dụng các giấy tờ giả này mà do A. chuẩn bị trước gửi cho nhân viên Ngân hàng B. điền vào hồ sơ, sau đó M. dẫn đến căn hộ thuộc tòa R. khu đô thị C. để tạo sự tin tưởng M. là chủ sở hữu căn hộ và ký vào giấy tờ làm thẻ tín dụng, từ đó chiếm đoạt tiền của Ngân hàng B.
Căn cứ Công văn số 50/TANDTC-PC ngày 07/4/2020 về việc xử lý hình sự người sử dụng tài liệu giả để "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và hướng dẫn tại Mục 2, Công văn số 233/TANDTC-PC ngày 01/10/2019 thì trường hợp người thực hiện một hành vi phạm tội nhưng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của nhiều tội thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nặng hơn. Do đó, trường hợp người có hành vi sử dụng giấy tờ, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bị xử lý hình sự về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 174, Bộ luật Hình sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Hành vi của Nguyễn Thị Thanh M. cấu thành 02 tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” (đây cũng là quan điểm của tác giả).
Vì sau khi nhờ A. làm thủ tục mở thẻ, M. biết các giấy tờ sử dụng là giả nhưng vẫn sử dụng các giấy tờ này để đi lừa đảo chiếm đoạt tiền của Ngân hàng B. Căn cứ biên bản đối chất giữa M. với H. thì H. khai A. chụp ảnh các giấy tờ của M. gửi trước cho H. để điền thông tin vào hồ sơ mở thẻ, khi M. dẫn H. tới căn hộ thuộc tòa R. khu đô thị C. thì M. đưa bản gốc có dấu đỏ để đối chiếu và các bản ảnh in các giấy tờ trên có đóng dấu “Đã đối chiếu với bản gốc”.
Ngoài ra, theo lời khai của Phạm Thị D. thì M. đã gửi ảnh chụp CMND cho D. để đối chiếu thông tin trên thẻ tín dụng, thấy đúng thông tin nên D. mới đồng ý rút tiền cho M. Như vậy, M. hoàn toàn nhận thức được các tài liệu mà A. đã chuẩn bị là giả nhưng vẫn cố ý sử dụng các giấy tờ đó để phạm một tội khác. Do đó, hành vi của M. phải bị xử lý ở cả hai tội thì mới không bị bỏ lọt hành vi phạm tội.
Trên đây là nội dung vụ án và các quan điểm xác định tội danh đối với Nguyễn Thị Thanh M. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, trao đổi của các độc giả, đồng nghiệp.
ANH DŨNG
Tòa án Quân sự khu vực Thủ đô Hà Nội
Vi phạm hợp đồng theo quy định của Luật Thương mại 2005 và Bộ nguyên tắc PICC