(LSVN) - Phòng vệ chính đáng là tình tiết làm loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thông qua việc ngăn chặn những hành vi gây nguy hiểm, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền hoặc lợi ích chính đáng của chính người đã phòng vệ hoặc của người khác. Vì vậy, đây là hành vi mang tính tích cực và Nhà nước khuyến khích công dân thực hiện nhưng phải trong khuôn khổ pháp lý nhất định.
Căn cứ theo Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về phòng vệ chính đáng như sau:
Điều 22. Phòng vệ chính đáng 1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. 2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. 3. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. |
Theo quy định trên, một hành vi được xem là phòng vệ chính đáng trước hết bản thân người thực hiện hành vi này phải có quyền phòng vệ và đồng thời phải phòng vệ trong phạm vi và giới hạn nhất định. Vì lẽ đó, hành vi phòng vệ chính đáng phải thỏa mãn các điều kiện sau:
– Thứ nhất, đáp ứng đầy đủ các điều kiện làm cơ sở phát sinh quyền phòng vệ, bao gồm:
- Có sự tấn công nguy hiểm đáng kể và trái pháp luật;
- Sự tấn công xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác (là những quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ).
- Sự tấn công phải đang hiện hữu, nghĩa là hành vi tấn công phải đang xảy ra hoặc đe dọa xảy ra ngay tức khắc.
– Thứ hai, mục đích phòng vệ là nhằm gạt bỏ sự tấn công, nghĩa là hành vi phòng vệ phải nhằm vào chính người đang có hành vi tấn công.
– Thứ ba, về phạm vi phòng vệ, sự phòng vệ phải trong giới hạn cần thiết để ngăn chặn sự tấn công. Sự cần thiết của hành vi phòng vệ được đánh giá dựa trên các yếu tố: tính chất của quan hệ xã hội bị đe dọa xâm hại; mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra; sức mạnh và sức mãnh liệt của hành vi tấn công; tính chất, mức độ của phương pháp, phương tiện hay công cụ mà kẻ tấn công đã sử dụng; thời gian, địa điểm xảy ra hành vi tấn công và phòng vệ; sức mạnh và khả năng phòng vệ.
Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung 2017) có quy định về vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Theo đó, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Cụ thể, tại Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội "Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội" như sau:
Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên. 3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. |
Tóm lại, phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm nhưng chúng ta cần phải nắm rõ những quy định về phòng vệ chính đáng vì nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây vừa là cơ sở để phân định giữa tội phạm với hành vi không phải tội phạm, vừa đảm bảo người dân tích cực tham gia vào việc tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, của người khác, của xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm.
TRÀ MY