Đặt vấn đề
Xử lý nợ xấu đóng vai trò then chốt trong việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Trong đó, việc giải quyết tài sản bảo đảm bao gồm các bước như thu giữ tài sản, định giá, bán hoặc thanh lý và chuyển giao quyền sở hữu tài sản bảo đảm là mắt xích quan trọng. Tuy nhiên, do đặc điểm phức tạp của một số loại tài sản như quyền tài sản, tàu bay, tàu biển, bất động sản hình thành trong tương lai… mà quá trình này thường gặp nhiều trở ngại.

Ảnh minh hoạ.
Một số hạn chế trong pháp luật về xử lý các loại tài sản đặc thù trong xử lý nợ xấu tại Việt Nam
Xử lý tài sản bảo đảm là quyền tài sản
Quyền tài sản ngày càng được sử dụng phổ biến làm tài sản bảo đảm cho các khoản vay tại các tổ chức tín dụng. Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Khi xử lý loại tài sản này, các tổ chức tín dụng thường ưu tiên lựa chọn phương án thỏa thuận giữa các bên thay vì khởi kiện hoặc yêu cầu thi hành án thông qua cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, quá trình xử lý một số loại quyền tài sản hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do hệ thống pháp luật hiện hành chưa có các quy định và hướng dẫn đầy đủ để hỗ trợ việc thực thi.
Quyền tài sản là quyền sử dụng đất
Để có thể xử lý được tài sản là quyền sử dụng đất, bên nhận thế chấp cần tiến hành thủ tục thu giữ quyền sử dụng đất từ những người đang chiếm hữu, sử dụng quyền sử dụng đất đó (có thể là bên thế chấp, người đã mua, đã nhận trao đổi quyền sử dụng đất thế chấp với bên thế chấp mà không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp…). Theo quy định tại Khoản 5 Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2015, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Thực tế cho thấy, nếu không có sự hợp tác, sự tự nguyện của bên thế chấp, của chủ thể đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng đất thì không thể xử lý được tài sản thế chấp bởi bên nhận thế chấp không có quyền cưỡng chế, tịch thu kê biên quyền sử dụng đất đã thế chấp. Các nghị định hướng dẫn của Chính phủ có quy định về vai trò của ủy ban nhân dân cấp cơ sở, cơ quan công an(1) trong việc thu giữ tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, các cơ quan này cũng chỉ thực hiện các công việc có tích chất “hỗ trợ” chứ không có tính quyết định để buộc bên thế chấp phải giao tài sản. Trong trường hợp không thể tự thu giữ được quyền sử dụng đất thế chấp, bên nhận thế chấp chỉ có thể gửi đơn đến tòa án yêu cầu để cơ quan thi hành án cưỡng chế thu giữ trên cơ sở phán quyết của tòa án(2). Quá trình này phức tạp, mất nhiều thời gian, có thể kéo dài hàng năm, thậm chí vài năm gây khó khăn cho tổ chức tín dụng trong việc thu giữ tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất.
Quyền tài sản là quyền sở hữu trí tuệ
Việc định giá tài sản thế chấp khi xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện như một khâu độc lập với quá trình định giá tài sản khi giao kết hợp đồng thế chấp và định giá trong quá trình thực hiện hợp đồng thế chấp. Giá của tài sản thế chấp tại thời điểm xử lý được xác định theo thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không có thỏa thuận, giá tài sản thế chấp tại thời điểm xử lý được xác định là “giá thị trường” của tài sản.
Quyền sở hữu trí tuệ là một trong những loại tài sản được Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định có thể đem thế chấp, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tuy nhiên trong thực tiễn, các ngân hàng thương mại thường không lựa chọn loại tài sản này. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là những khó khăn trong việc định giá chính xác giá trị quyền sở hữu trí tuệ. Thông thường, các ngân hàng thương mại cho vay dựa trên việc định giá tài sản bảo đảm để xác định mức vay. Vì vậy, nếu không xác định được giá trị tài sản bảo đảm thì các ngân hàng sẽ không có căn cứ xác định giới hạn cho vay tối đa theo giá trị tài sản bảo đảm. Hiện có một số phương pháp định giá quyền sở hữu trí tuệ như phương pháp dựa vào thu nhập hoặc phương pháp dựa vào thị trường(3), tuy nhiên các phương pháp này đều không phản ánh đúng giá trị thực tế của quyền tài sản thế chấp, khi thì mang ý chí chủ quan của người định giá, lúc lại phụ thuộc khách quan vào nhu cầu thị trường.
Quyền tài sản là quyền khai khoáng
Đầu năm 2017, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) gặp khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm là quyền khai thác khoáng sản do hai Sở Tài nguyên và Môi trường Thái Nguyên và Điện Biên từ chối thực hiện thủ tục chuyển nhượng tài sản này. Trước đó, việc doanh nghiệp khai thác khoáng sản dùng giấy phép khai khoáng thế chấp để vay vốn ngân hàng diễn ra phổ biến do chi phí khai mỏ cao, vượt quá khả năng tài chính của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự từ chối từ các Sở Tài nguyên và Môi trường đã khiến BIDV không thể chuyển nhượng tài sản bảo đảm, dẫn đến không thu hồi được khoản nợ vay. Nguyên nhân chính đến từ công văn của Tổng cục Địa chất và khoáng sản, trong đó khẳng định Luật Khoáng sản và các văn bản hiện hành không quy định việc thế chấp hay chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản. Theo Tổng cục Địa chất và khoáng sản, quyền khai khoáng không phải là tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân mà chỉ là quyền khai thác với giá trị do cơ quan có thẩm quyền xác định. Do đó, việc thế chấp quyền khai khoáng bị coi là không phù hợp với quy định pháp luật. Dù BIDV lập luận rằng Bộ luật Dân sự và các quy định liên quan cho phép sử dụng quyền khai khoáng để bảo đảm nghĩa vụ dân sự, và các tổ chức tín dụng khác cũng đồng tình, nhưng Tổng cục Địa chất và khoáng sản vẫn bảo lưu quan điểm. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến BIDV mà còn tác động đến nhiều tổ chức tín dụng khác, khi tổng giá trị tín dụng được bảo đảm bằng quyền khai thác khoáng sản ước tính lên đến hàng trăm ngàn tỷ đồng(4).
Để tháo gỡ vướng mắc, ngày 23/3/2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Công văn số 1498/BTNMT-ĐCKS hướng dẫn về việc thế chấp quyền khai thác khoáng sản của tổ chức, cá nhân tại các tổ chức tín dụng. Văn bản này định hướng tháo gỡ các vấn đề liên quan đến việc thế chấp và xử lý tài sản bảo đảm là quyền khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, đến nay, Luật Khoáng sản và các văn bản hướng dẫn vẫn chưa sửa đổi, bổ sung cơ chế xử lý đối với quyền khai thác khoáng sản được thế chấp tại tổ chức tín dụng. Điều này dẫn đến việc triển khai và xử lý tài sản bảo đảm trong thực tiễn gặp nhiều vướng mắc do chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện.
Ngoài ra, các quyền tài sản nói chung còn gặp một số vướng mắc sau:
(i) Về phương thức xử lý quyền tài sản, Điều 303 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tài sản thế chấp là quyền tài sản có thể được xử lý theo các phương thức: bán đấu giá tài sản (theo thỏa thuận); bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác. Quy định này bộc lộ những bất cập sau đây: Thứ nhất, việc bán đấu giá được thực hiện công khai, do đó có thể ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động kinh doanh của bên thế chấp, chi phí tổ chức bán đấu giá tài sản cao. Thêm vào đó, do chưa có cơ chế quản lý, giám sát chặt chẽ nên có thể dẫn đến hiện tượng thông đồng, ép giá giữa những người đăng ký mua tài sản đấu giá(5) với tổ chức bán đấu giá. Bên nhận thế chấp, bên bán đấu giá tài sản không có chức năng cưỡng chế, thu giữ tài sản thế chấp dẫn đến tình trạng nhiều khi các thủ tục mở phiên đấu giá đã hoàn tất nhưng lại chưa thu giữ được tài sản bảo đảm. Thứ hai, việc giám sát quá trình bán đấu giá tài sản là một khâu quan trọng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên trong quan hệ thế chấp, tuy nhiên cơ chế giám sát chưa được pháp luật làm rõ. Cụ thể, cần quy định trường hợp nào việc bán tài sản cần đặt dưới sự kiểm soát của tòa án, bên nhận thế chấp được bán tài sản thì phải tuân thủ các nghĩa vụ gì. Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa làm rõ được sự khác nhau giữa việc nhận chính tài sản bảo đảm (có tính chất như bên nhận thế chấp mua lại tài sản thế chấp và phải thanh toán giá trị chênh lệch của tài sản với giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm) với phương thức dùng tài sản thế chấp để “gán nợ”, do đó gây khó khăn cho các chủ thể trong việc áp dụng.
(ii) Xác định quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản: Nếu như Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2005 căn cứ vào thời điểm đăng ký để xác định thứ tự ưu tiên trong trường hợp một tài sản thế chấp bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ thì Điều 297 Bộ luật Dân sự năm 2015 căn cứ vào thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp một tài sản bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. Sự thay đổi này là hợp lý, bởi lẽ Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tiếp cận dưới góc độ vật quyền bảo đảm, ghi nhận quyền của bên nhận tài sản phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận có quyền cầm, nắm, giữ hợp pháp tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp tất cả các giao dịch thế chấp đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba (đều không đăng ký), theo điểm c khoản 1 Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015, thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập giao dịch. Có thể thấy quy định không thực sự hợp lý bởi: Một là, thời điểm giao kết giao dịch thế chấp chỉ có giá trị ràng buộc giữa các bên là chủ thể của giao dịch đó mà không có giá trị với bất cứ người thứ ba nào. Muốn cho giao dịch đó có hiệu lực với người thứ ba thì phải có cơ chế để công bố quyền của chủ thể trong giao dịch đó như đăng ký. Do vậy, không thể lựa chọn thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm làm căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên giữa các bên nhận thế chấp. Hai là, quy định trên có thể tạo điều kiện cho các bên “thông đồng” thay đổi thời điểm xác lập giao dịch thế chấp để hưởng quyền ưu tiên thanh toán. Vì lẽ đó, trong trường hợp đối với các hợp đồng thế chấp không đăng ký thì không đặt ra thứ tự ưu tiên thanh toán, các bên nhận thế chấp sẽ được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với giá trị nghĩa vụ được bảo đảm trên số tiền thu được từ việc bán quyền tài sản thế chấp.
(iii) Chuyển quyền sở hữu quyền tài sản: Khi xử lý tài sản thế chấp là quyền tài sản, bên nhận thế chấp thường phải cung cấp các giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của quyền tài sản, chứng minh tư cách chủ thể đối với tài sản thế chấp và chịu trách nhiệm về tính xác thực của các thông tin được cung cấp. Quá trình xử lý quyền tài sản thế chấp sẽ diễn ra thuận lợi nếu có sự hợp tác từ bên thế chấp. Trong trường hợp này, người mua quyền tài sản thế chấp có thể dễ dàng thực hiện thủ tục đăng ký quyền sở hữu nếu có hợp đồng mua bán với bên thế chấp - chủ sở hữu quyền tài sản. Tuy nhiên, nếu bên thế chấp không hợp tác, việc bán quyền tài sản thế chấp trở nên rất phức tạp. Người mua không thể tiến hành đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nếu không có hợp đồng mua bán có chữ ký của bên thế chấp. Theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, trong trường hợp chủ sở hữu tài sản (bên thế chấp) bỏ trốn hoặc từ chối ký tên đồng ý chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua, hợp đồng thế chấp đã ký kết có thể được coi là căn cứ để thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế, các cơ quan chức năng thường từ chối thực hiện đăng ký trong những trường hợp này, với lý do thiếu hợp đồng mua bán được công chứng của chủ sở hữu. Hợp đồng thế chấp do bên nhận thế chấp cung cấp thường không được coi là đủ căn cứ để chuyển quyền sở hữu tài sản bảo đảm cho người mua.
Xử lý tài sản bảo đảm là tàu bay, tàu biển
Tàu bay, tàu biển là những phương tiện được xác định có giá trị lớn do Nhà nước quản lý. Do vậy, trên thực tiễn rất ít trường hợp sử dụng làm tài sản bảo đảm trong giao dịch. Tuy nhiên, pháp luật vẫn có những quy định cụ thể điều chỉnh loại tài sản này. Cụ thể, Điều 37, Điều 38 và Điều 39 của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 cho phép sử dụng tàu biển trong các giao dịch bảo đảm, bao gồm việc thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ. Tương tự, Điều 28 và Điều 32 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định rằng tàu bay có thể được cầm cố hoặc thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm đối với những loại động sản đặc thù như tàu bay và tàu biển hình thành trong tương lai vẫn tồn tại một số bất cập.
Một là, điểm c khoản 1 Điều 28 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam có quy định các quyền của tàu bay bao gồm là thế chấp và cầm cố, tuy nhiên Điều 32 Luật này lại không đề cập đến cầm cố tàu bay. Như vậy, quy định pháp luật gây khó khăn cho các chủ thể khi áp dụng biện pháp cầm cố tàu bay trên thực tế.
Hai là, mặc dù Nghị định số 102/2017/NĐ-CP, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và Nghị định số 21/2021/NĐ-CP cho phép sử dụng tàu bay, tàu biển trong thế chấp, cầm cố tài sản. Tuy nhiên pháp luật mới chỉ ghi nhận việc thế chấp, cầm cố tàu bay, tàu biển đang đóng chứ chưa có bất kỳ một quy định nào khẳng định rõ là được phép thế chấp tàu ba, tàu biển hình thành trong tương lai.
Ba là, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và Nghị định số 102/2017/NĐ-CP quy định việc đăng ký cầm cố, thế chấp tàu bay, tàu biển phải được ghi vào Sổ đăng bạ tàu bay Việt Nam, nhưng lại không có quy định cụ thể về mẫu Sổ đăng bạ tàu bay Việt Nam, gây khó khăn cho tổ chức tín dụng trong việc xác định các thông tin hợp lệ về tài sản bảo đảm là tàu bay, tàu biển.
Nhìn chung, tàu bay, tàu biển là những loại tài sản có giá trị kinh tế rất lớn, do vậy khi các doanh nghiệp đem vào giao dịch bảo đảm sẽ khiến các tổ chức tín dụng e ngại và lo sợ, đặc biệt là tàu bay, tàu biển hình thành trong tương lai. Quá trình xử lý các loại tài sản này trên thực tế cũng rất khó vì những loại tài sản này có khối lượng, trọng lượng lớn, cần phải được duy trì, bảo quản thường xuyên. Nếu để một thời gian không có sự bảo quản duy trì thì các loại động sản này khả năng cao sẽ bị giảm giá trị và rất ít các doanh nghiệp có thể nhận mua trong trường hợp bán đấu giá vì thực tiễn rất ít các doanh nghiệp hoặc các tổ chức khác có thể sử dụng các loại phương tiện này trong hoạt động kinh doanh.
Xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản hình thành trong tương lai
Khoản 2 Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Tài sản hình thành trong tương lai gồm: tài sản chưa hình thành; tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch. Theo đó, tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại, đang được đầu tư, xây dựng vào thời điểm xem xét nhưng chắc chắn sẽ có và hình thành trong tương lai hoặc là tài sản đã hình thành nhưng mới thuộc sở hữu tại thời điểm giao kết giao dịch và chưa chuyển giao quyền sở hữu. Khoản 3 Điều 295 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Như vậy, khi vay thế chấp, bên vay có thể dùng tài sản hình thành trong tương lai làm biện pháp bảo đảm trong hợp đồng.
Theo Điều 55 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: “Việc xử lý tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Thỏa thuận này có thể có các nội dung sau đây: Trường hợp tài sản bảo đảm chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận trong trường hợp thuộc đối tượng phải đăng ký theo quy định của pháp luật thì bên nhận bảo đảm có thể chuyển nhượng hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng khác về xác lập quyền đối với tài sản hình thành trong tương lai, nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm hoặc bán tài sản hình thành trong tương lai theo quy định của pháp luật…”. Theo đó, đối với tài sản bảo đảm chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận thì các bên có thể giải quyết bằng cách chuyển nhượng hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng khác về xác lập quyền đối với tài sản hình thành trong tương lai (chuyển nhượng quyền tài sản), tuy nhiên, việc định giá, đánh giá giá trị tài sản (giá trị quyền tài sản) trong trường hợp này là rất khó bởi lẽ nếu lấy giá chuyển nhượng tương đương với số tiền mà khách hàng đã nộp cho chủ đầu tư thì sẽ rất thiệt thòi cho bên chuyển nhượng do tại thời điểm này giá trị tài sản đã có thể tăng cao hơn rất nhiều. Kể cả khi ngân hàng định giá theo nguyên tắc bất động sản hoàn thành đến đâu định giá đến đấy thì cũng không khả thi do việc định giá như vậy sẽ làm sai lệch ý nghĩa và giá trị sử dụng của bất động sản.
Cũng xuất phát từ vướng mắc trong cách thức định giá bất động sản hình thành trong tương lai mà khi xử lý tài sản bảo đảm, ngân hàng có khả năng không thu hồi đủ vốn do giá trị tài sản thấp hơn khoản nợ mà khách hàng phải trả cho ngân hàng. Một số trường hợp khác khi không thể bán được tài sản hoặc bán được nhưng giá trị rất thấp thì khách hàng sẽ yêu cầu tổ chức tín dụng nhận chính tài sản đó. Nếu tổ chức tín dụng nhận thì sẽ phải tốn thêm rất nhiều chi phí liên quan đến việc bảo quản, trông coi và vốn của tổ chức tín dụng sẽ bị “chôn” trong tài sản cho đến khi xử lý được tài sản đó. Trong phương thức xử lý tài sản thế chấp là bất động sản hình thành trong tương lai mà tác giả đã bàn luận trước đó, tại thời điểm xử lý tài sản bảo đảm mà nhà ở đó chưa hình thành hoặc chưa được đăng ký quyền sở hữu thì dù lựa chọn phương thức xử lý nào, tổ chức tín dụng cũng sẽ gặp bất lợi. Nếu tổ chức tín dụng nhận chính tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai thì sẽ ảnh hưởng đến vấn đề tài chính của tổ chức tín dụng. Nguồn vốn của tổ chức tín dụng bị tồn đọng không thể vận hành trong lưu thông, nếu tình trạng này kéo dài càng lâu thì tổ chức tín dụng càng bị thiệt hại.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là các loại tài sản đặc thù trong xử lý nợ xấu tại Việt Nam
Tài sản bảo đảm là quyền tài sản
Đối với quyền sử dụng đất: Mặc dù khoản 5 Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định cụ thể cho phép bên nhận thế chấp yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, tuy nhiên trên thực tế, nếu không có sự tự nguyện của bên thế chấp thì quá trình này khó thực hiện. Do đó, pháp luật cần bổ sung thêm chế tài trong trường hợp bên chiếm hữu tài sản không tự nguyện hợp tác giao quyền sử dụng đất cho bên nhận thế chấp. Đồng thời, pháp luật cũng cần ghi nhận việc cưỡng chế thu giữ quyền sử dụng đất thế chấp cho bên nhận thế chấp là “nghĩa vụ” của cơ quan công an và ủy ban nhân dân nơi có đất.
Đối với quyền sở hữu trí tuệ: Việc quyền sở hữu trí tuệ ít được sử dụng làm tài sản thế chấp trong thực tiễn, dù được Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó vấn đề định giá quyền sở hữu trí tuệ là một rào cản lớn. Để khắc phục vấn đề này, cần thiết phải ban hành một văn bản chuyên biệt về định giá quyền sở hữu trí tuệ, giúp các tổ chức tín dụng và chuyên gia định giá có cơ sở pháp lý và kỹ thuật rõ ràng để thực hiện. Trong đó cần có các quy định cụ thể về phương pháp định giá quyền sở hữu trí tuệ (ví dụ như phương pháp chi phí, phương pháp thu nhập, phương pháp thị trường…); quy trình định giá quyền sở hữu trí tuệ từ khâu tiếp nhận hồ sơ, phân tích giá trị đến thẩm định kết quả; tiêu chuẩn quốc gia về định giá quyền sở hữu trí tuệ; những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền định giá quyền sở hữu trí tuệ. Trong đó, nên chú trọng xây dựng một bộ tiêu chuẩn quốc gia về định giá quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với thông lệ quốc tế (ISO, WIPO) và điều kiện thực tiễn tại Việt Nam. Tiêu chuẩn này cần bao quát các loại hình quyền sở hữu trí tuệ như sáng chế, nhãn hiệu, quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh… và bao gồm cách xác định giá trị dựa trên các thông số kỹ thuật và giá trị sử dụng thực tế; đánh giá tác động của quyền sở hữu trí tuệ đến lợi thế cạnh tranh và doanh thu của chủ sở hữu và định hướng cách xử lý biến động giá trị quyền sở hữu trí tuệ theo thời gian.
Đối với quyền khai khoáng: Trước hết, cần sửa đổi Luật Khoáng sản năm 2010 để ghi nhận quyền thế chấp quyền khai thác khoáng sản. Quy định này nhằm xác lập quyền tài sản đối với quyền khai thác khoáng sản, đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng có thể an tâm sử dụng loại tài sản này làm tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, Luật Khoáng sản năm 2010 cũng cần được sửa đổi, bổ sung thêm các quy định về trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp quyền khai thác khoáng sản như hướng dẫn trong Công văn số 1498/BTNMT-ĐCKS ngày 23/3/2020 của Bộ Tài nguyên và Môi trường để tạo cơ sở pháp lý thống nhất trong việc xử lý quyền khai khoáng khi phát sinh nợ xấu, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Ngoài ra, để khắc phục những vướng mắc trong hành lang pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm là quyền tài sản nói chung, tác giả kiến nghị sửa đổi các quy định liên quan đến bán đấu giá tài sản theo hướng ban hành quy định chi tiết về việc kiểm soát quá trình tổ chức đấu giá, bao gồm các nguyên tắc giám sát công khai, vai trò của cơ quan tư pháp hoặc bên thứ ba độc lập trong việc giám sát, đồng thời áp dụng công nghệ số để tăng tính minh bạch, như sử dụng hệ thống đấu giá trực tuyến để hạn chế gian lận, thông đồng hoặc ép giá. Cần thiết phải bổ sung quyền và trách nhiệm cưỡng chế, thu giữ tài sản bảo đảm cho bên nhận thế chấp, được thực hiện với trách nhiệm hỗ trợ của cơ quan thi hành án dân sự hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sửa đổi Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo hướng loại bỏ việc áp dụng thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Thay vào đó quy định rằng trong trường hợp các giao dịch bảo đảm không đăng ký, tài sản sẽ được xử lý để thanh toán theo tỷ lệ tương ứng giá trị nghĩa vụ được bảo đảm so với số tiền thu được từ xử lý tài sản, bảo đảm công bằng giữa các bên nhận thế chấp.
Tài sản bảo đảm là tàu bay, tàu biển
Sửa đổi, bổ sung quy định về cầm cố tàu bay, tàu biển: Thống nhất quy định giữa Điều 28 và Điều 32 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 trong việc ghi nhận rõ ràng cầm cố tàu bay là một trong các biện pháp bảo đảm có thể áp dụng. Đồng thời, làm rõ trong Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành thủ tục cầm cố tàu bay, điều kiện, quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cầm cố nhằm tránh xung đột hoặc thiếu rõ ràng trong quá trình áp dụng.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thế chấp và cầm cố tàu bay, tàu biển hình thành trong tương lai: Quy định rõ ràng trong Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành về việc tàu bay và tàu biển hình thành trong tương lai được phép sử dụng làm tài sản bảo đảm, đồng thời cụ thể hóa các điều kiện để tàu bay và tàu biển hình thành trong tương lai đủ điều kiện thế chấp hoặc cầm cố, chẳng hạn: hợp đồng đóng tàu (tàu bay, tàu biển), biên bản nghiệm thu từng giai đoạn, cam kết về thời hạn hoàn thành và giao tài sản từ bên đóng tàu. Bên cạnh đó, cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản hình thành trong tương lai, đặc biệt khi tài sản này chưa hoàn thiện hoặc chưa đưa vào khai thác cũng cần được làm rõ trong Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Ban hành mẫu chuẩn hóa Sổ đăng bạ tàu bay Việt Nam: Theo tác giả, Bộ Giao thông Vận tải cần ban hành thông tư quy định mẫu Sổ đăng bạ tàu bay Việt Nam, bao gồm các thông tin tối thiểu như: thông tin chi tiết về tài sản bảo đảm (tàu bay/ tàu biển, thông số kỹ thuật, số hiệu, trạng thái tài sản); thông tin về giao dịch bảo đảm (bên thế chấp/cầm cố, bên nhận bảo đảm, giá trị giao dịch); thời điểm đăng ký và các thay đổi liên quan. Bên cạnh đó, việc triển khai một cơ sở dữ liệu điện tử về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu bay, tàu biển cũng cần thiết nhằm giúp tổ chức tín dụng tra cứu nhanh chóng, minh bạch và giảm thiểu sai sót trong việc xác định tài sản bảo đảm.
Tài sản bảo đảm là bất động sản hình thành trong tương lai
Bổ sung quy định về cơ chế định giá bất động sản hình thành trong tương lai: Theo tác giả, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Nghị định số 21/2021/NĐ-CP để bổ sung phương pháp định giá bất động sản hình thành trong tương lai, trong đó cho phép định giá theo giá trị thị trường tại thời điểm xử lý tài sản; quy định rõ phương pháp định giá dựa trên tiến độ xây dựng, mức độ hoàn thiện và giá trị dự kiến sau khi hoàn thành; cho phép sử dụng đơn vị thẩm định giá độc lập để bảo đảm khách quan và minh bạch. Đồng thời, bổ sung các quy định cụ thể hướng dẫn chi tiết về thỏa thuận định giá trong hợp đồng bảo đảm theo hướng: (i) Các bên cần thỏa thuận rõ ràng phương thức định giá tài sản trong trường hợp tài sản chưa hoàn thành hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu;
(ii) Quy định rõ trách nhiệm của bên vay trong việc cung cấp thông tin và tài liệu liên quan đến giá trị thực tế của tài sản bảo đảm.
Sửa đổi, bổ sung quy định về cơ chế xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản hình thành trong tương lai: sửa đổi Nghị định số 21/2021/NĐ-CP và các văn bản liên quan để bổ sung các phương thức xử lý cụ thể sau: Một là, về bán tài sản theo hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, cần quy định chi tiết thủ tục chuyển nhượng hợp đồng, bao gồm việc thông báo cho bên thứ ba và xác nhận từ chủ đầu tư; Hai là, về chuyển nhượng quyền tài sản, cần làm rõ quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo đảm đối với quyền tài sản, đồng thời yêu cầu đăng ký giao dịch tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo đảm tính pháp lý; Ba là, cho phép tổ chức tín dụng tiếp tục triển khai hoàn thiện tài sản (trong trường hợp bất động sản chưa hoàn thành, cần có cơ chế cho phép tổ chức tín dụng phối hợp với chủ đầu tư để hoàn thiện tài sản trước khi xử lý). Khi tổ chức tín dụng nhận tài sản bảo đảm là bất động sản hình thành trong tương lai sẽ ít nhiều có rủi ro xuất phát từ tính chất hình thành của loại tài sản này, do đó pháp luật nên cho phép tổ chức tín dụng linh hoạt lựa chọn phương án xử lý tài sản như giao lại tài sản cho một bên thứ ba để tiếp tục hoàn thiện hoặc thành lập quỹ tín thác hoặc công ty quản lý tài sản để quản lý, khai thác và xử lý tài sản này. Trường hợp bất động sản hình thành trong tương lai đang trong thời gian xử lý, pháp luật cũng cần làm rõ trách nhiệm thanh toán chi phí bảo quản, trông coi tài sản và cho phép tổ chức tín dụng tính các chi phí này vào giá trị thu hồi từ tài sản bảo đảm.
Kết luận
Hoàn thiện pháp luật về xử lý các tài sản đặc thù trong xử lý nợ xấu là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm hiệu quả xử lý nợ xấu, giảm thiểu rủi ro cho hệ thống tài chính, và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Bằng cách xử lý từng vướng mắc cụ thể trong hành lang pháp luật hiện hành, khung pháp lý về xử lý các tài sản đặc thù trong xử lý nợ xấu sẽ trở nên đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, đóng góp tích cực vào việc giảm thiểu nợ xấu và ổn định nền kinh tế của đất nước.
(1) Xem Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
(2) Theo khảo sát khối tài chính của WB-IFC-VBA đối với 85% số ngân hàng được khảo sát, phải mất trên 3 tháng mới xin được phán quyết của tòa án, còn 54% trường hợp thì thời gian này là trên 6 tháng.
(3) Trần Thị Thu Hương, Cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là tài sản trí tuệ - Cơ hội, thách thức cho các ngân hàng thương mại Việt Nam,
Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, số 170, tháng 7/2016, tr 53-60.
(4) Tranh cãi quanh việc thế chấp quyền khai thác khoáng sản, https://valuinco.vn/blogs/tin-thoi-su/tranh-cai-quanh-viec-the-chap- quyen-khai-thac-khoang-san, ngày 17/11/2024.
(5) Vũ Thị Hồng Yến, Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013, tr 103.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015.
3. Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
4. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
5. Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm.
6. Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
7. Khúc Thị Phương Nhung, Một số vướng mắc, bất cập của các quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng và kiến nghị sửa đổi, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 02/2018.
8. Trần Thị Thu Hương, Cho vay dựa trên tài sản bảo đảm là tài sản trí tuệ - Cơ hội, thách thức cho các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, số 170, tháng 7/2016.
9. Vũ Thị Hồng Yến, Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013.
10. Tranh cãi quanh việc thế chấp quyền khai thác khoáng sản, https://valuinco.vn/blogs/tin-thoi-su/ tranh-cai-quanh-viec-the-chap-quyen-khai-thac-khoang-san, ngày 17/11/2024.
LƯƠNG THỊ NGỌC HUYỀN
Công ty Luật TNHH số 1 Bắc Ninh