/ Trao đổi - Ý kiến
/ Những nội dung cần xem xét khi giải quyết vụ án dân sự liên quan đến vấn đề dân tộc

Những nội dung cần xem xét khi giải quyết vụ án dân sự liên quan đến vấn đề dân tộc

29/07/2025 06:33 |

(LSVN) - Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao. Dân tộc được hiểu theo 02 nghĩa cơ bản, tuy khác nhau nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau.

Theo nghĩa rộng, dân tộc (quốc gia dân tộc) dùng để chỉ 01 cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân của một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh trong suốt lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.

Theo nghĩa hẹp (dân tộc = tộc người) thì dân tộc là khái niệm dùng chỉ 01 cộng đồng tộc người được hình thành trong lịch sử, có mối quan hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa. Trong nội dung bài viết này người viết chỉ chủ yếu phân tích đề cấp đến vấn đề dân tộc theo nghĩa hẹp.

Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, cùng chung vận mệnh lịch sử, từ lâu đời đã sớm có ý thức gắn bó với nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước. Sự đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc đã tạo nên một quốc gia dân tộc bền vững và thống nhất.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặc biệt coi trọng chính sách dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, xem đó là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa do Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành phải phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của cả dân tộc; là công cụ pháp lý quan trọng để thực hiện chính sách đại đoàn kết và bình đẳng dân tộc, bảo đảm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tất cả các dân tộc.

Căn cứ khoản 2, 3 Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc thì dân tộc thiểu số được hiểu là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dân tộc đa số là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước theo điều tra dân số quốc gia. Theo Thông cáo báo chí kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, toàn quốc có 82.085.729 người dân tộc Kinh, chiếm 85,3% và 14.123.255 người dân tộc khác, chiếm 14,7% tổng dân số của cả nước. Như vậy Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số còn lại 53 dân tộc là dân tộc thiểu số[1].

Nhìn chung khi giải quyết vụ án dân sự thì mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật, tuy nhiên do điều kiện hoàn cảnh của người dân tộc thiểu số bị hạn chế hơn so với những chủ thể khác nên pháp luật có những quy định đặc thù nhằm bảo lợi ích cho nhóm chủ thể này. Việc pháp luật quy định những lợi ích cho nhóm chủ thể là người dân tộc thiểu số so với những chủ thể khác không tạo ra sự phân biệt đối xử hay bất bình đẳng mà nhằm hỗ trợ nhóm chủ thể là người dân tộc thiểu số thực hiện hoạt động tố tụng thuận lợi hơn.

2. Những nội dung cần xem xét khi giải quyết vụ án dân sự liên quan đến vấn đề dân tộc

Hiến pháp năm 2013 – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của nước ta đã hiến định sâu sắc, toàn diện hơn về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc. Theo đó, tại Điều 5 Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc được khẳng định trong thực tiễn; quyền và nghĩa vụ công dân cũng như đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo, không ngừng được nâng lên.

Cụ thể hoá các quy định tại Hiến pháp về vấn đề dân tộc thì các pháp luật chuyên ngành như Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 cũng có những quy định cụ thể nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người dân tộc thiểu số khi tham gia giải quyết vụ án tại Toà án.

2.1. Xem xét việc phiên dịch

Theo Điều 20 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự như sau: Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình; trường hợp này phải có người phiên dịch.

Việc pháp luật quy định người tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình nhằm mục đích là để đương sự trình bày rõ, đầy đủ nguyện vọng ý chí của mình và từ đó giúp Toà án xem xét giải quyết vụ án được toàn diện, khách quan và đúng pháp luật.

Căn cứ vào Điều 81 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, người phiên dịch được quy định như sau: Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch có thể do một bên đương sự lựa chọn hoặc do các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn. Người phiên dịch cần được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án yêu cầu để thực hiện việc phiên dịch trong quá trình tố tụng.

Thực tiễn áp dụng quy định về người phiên dịch cho thấy còn có những vướng mắc cần giải quyết. Do chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn nên việc thực hiện còn chưa thống nhất, do người phiên dịch không nằm trong tổ chức nào, không có cơ quan nào quản lý nên mỗi khi cần đến người phiên dịch thì cơ quan tiến hành tố tụng thường mời những người ở cơ quan khác hoặc cá nhân nào đó bất kỳ… biết tiếng dân tộc làm phiên dịch, việc sử dụng người phiên dịch còn khá nhiều lúng túng, hơn nữa cũng chưa có một đội ngũ phiên dịch giỏi, trình độ hiểu biết pháp luật của người phiên dịch còn hạn chế nên việc dịch thuật chất lượng còn kém, chưa đảm bảo tính khách quan.

2.2. Xem xét miễn tiền tạm ứng án phí và án phí[2]

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016 thì đương sự là người đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn sẽ được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí. Như vậy để được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí theo Nghị quyết số 326/2016 thì ngoài điều kiện là người dân tộc thiểu số ra thì còn phải đáp ứng điều kiện là sống tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban Dân tộc về việc phê duyệt danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025 thì Ủy ban dân tộc đã phê duyệt danh sách 13.222 thôn đặc biệt khó khăn, bao gồm 11.179 thôn của xã khu vực III, 736 thôn của xã khu vực II, 1.184 thôn của xã khu vực I và 123 thôn của các xã có thôn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn 41 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (có danh sách kèm theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021).

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016 thì đương sự là người đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn sẽ được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí. Nhưng theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban Dân tộc thì không phải toàn bộ địa bàn tại các xã thuộc vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn mà chỉ có một số địa bàn thuộc xã thuộc vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn như: Khóm, xóm, khu, ấp... Do đó, để đảm bảo tính chính xác nội dung thì cần phải chỉnh sửa lại là “Đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng (địa bàn) có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.

Như vậy, khi tham gia tố tụng vụ án dân sự tại Tòa án mà đương sự là đồng bào dân tộc thiểu số sống tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì mới được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí. Ngược lại đối với dân tộc thiểu số nhưng không sinh sống tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc là người không phải là dân tộc thiểu số nhưng sinh sống tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì cũng không được xét miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí.

Tuy nhiên, hiện nay mặc dù đương sự là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhưng họ là người có khả năng tài chính nên việc xét miễn nộp tiền cho đối tượng này là không phù hợp với thực tế, cụ thể như trường hợp sau đây:

Ông Võ Văn A. (sinh sống tại xã L., tỉnh V.) yêu cầu chia tài sản thừa kế với ông Võ Văn H. (sinh sống tại xã L., tỉnh V.) gồm số tiền mặt là 400.000.000 đồng do cha mẹ ruột của ông A. và ông H. chết để lại không có di chúc. Tòa án xác định hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ ông A. và ông H. thì chỉ có ông A. và ông H., không có ai khác. Theo Bản án sơ thẩm của Tòa án giải quyết là ông A. và ông H. mỗi người được hưởng 200.000.000 đồng và xác định ông A. và ông H. là người dân tộc thiểu số (Khmer) và sinh sống tại xã L., tỉnh V. là nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo danh mục kèm theo 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban dân tộc. Tuy nhiên trong trường hợp này việc miễn tiền án phí cho ông A và ông H là không phù hợp do ông A. và ông H. là người có tài sản được phân chia thừa kế nên có đủ khả năng tài chính để đóng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

2.3. Xem xét trợ giúp pháp lý

Trợ giúp pháp lý là một hình thức dịch vụ pháp lý mà Nhà nước và cả tổ chức xã hội giúp cho người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn những hiểu biết về pháp luật liên quan trực tiếp đến vụ việc vướng mắc của họ. Trợ giúp pháp lý còn trực tiếp tham gia vào xét xử các vụ việc theo quy định của pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Thông qua đó, giúp họ có cơ hội bình đẳng với các đối tượng khác trong tiếp cận công lý, để họ sử dụng pháp luật làm công cụ bảo vệ quyền khi bị xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm, như được tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu, nắm bắt và nâng cao hiểu biết pháp luật, kể cả vận dụng thực hiện ở mức tối thiểu thủ tục về hành chính - pháp lý, giúp họ nâng cao niềm tin vào công lý.

Theo Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là đối tượng được xem xét trợ giúp pháp lý. Do đó, khi giải quyết vụ án dân sự thì Toà án cần xem xét nội dung này để đảm bảo quyền và lợi ích của người dân tộc thiểu số.

Cũng tương tự như đối với trường hợp miễn tiền tạm ứng án phí và án phí thì để được trợ giúp pháp lý thì đòi hỏi người dân tộc thiểu số phải cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

3. Kết luận

Nói tóm lại khi giải quyết vụ án dân sự thì Toà án cần phải xem xét vấn đề dân tộc đặc biệt là người dân tộc thiểu số sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Việc pháp luật quy định những nội dung đặc thù riêng của người dân tộc thiểu số so với những chủ thể khác tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho họ, giúp họ thực hiện hoạt động tố tụng một cách thuận lợi hơn, đảm bảo tính công bằng của mọi chủ thể trong việc tiếp cận công lý. Chính vì vậy, nếu Toà án không thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung trên thì được xem là vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng và vụ án sẽ bị huỷ, làm kéo dài thời hạn giải quyết, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự cũng như uy tín của ngành Toà án.

[1] Trang cơ quan thống kê quốc gia, Thông cáo báo chí Kết quả sơ bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2019/10/thong-cao-bao-chi-ket-qua-so-bo-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019/, truy cập ngày 20/6/2025.

 [2] Trương Minh Tấn, Cần xem xét lại đối tượng được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí trong vụ án dân sự, Truy cập ngày 20/6/2025

TRƯƠNG MINH TẤN

TAND Khu vực 2 tỉnh Vĩnh Long

HOÀNG THỊ HOÀI THANH

TAND Khu vực 10 tỉnh Tây Ninh

Các tin khác