(LSVN) - Ngày 29/11/2020, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai đã tiếp tục tổ chức Lớp Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của Luật sư năm 2020. Trong đó, tại lớp bồi dưỡng, Luật sư Nguyễn Đình Hải đã trình bày chuyên đề về "Những vụ án oai sai nổi tiếng ở Việt Nam các vấn đề lý luận và thực tiễn". Tạp chí Luật sư Việt Nam xin giới thiệu đến các Luật sư và bạn đọc toàn bộ báo cáo chuyên đề này.
Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài về án oan, sai
Hoạt động tư pháp Việt Nam trong những năm qua đã có chuyển biến tích cực với nhiều kết quả đáng ghi nhận: hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng quy củ, có sự phối hợp thống nhất và hiệu quả; việc xét xử các vụ án hình sự cơ bản bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đã hạn chế đến mức thấp các trường hợp kết án oan người không có tội. Hầu hết các vụ án đã được đưa ra xét xử trong thời hạn luật định, chất lượng tranh tụng tại phiên tòa từng bước được nâng cao, tỷ lệ bản án, quyết định về hình sự bị sửa, hủy do lỗi chủ quan của hội đồng xét xử có xu hướng giảm hàng năm.
Bên cạnh những thành quả đạt được, hoạt động tố tụng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, đặc biệt là giai đoạn điều tra và xét xử vẫn còn để nhiều án oan, sai dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại cũng như các đương sự trong vụ án hình sự, vụ việc dân sự, kinh tế bị xâm hại nghiêm trọng, gây mất lòng tin của nhân dân đối với công lý, giảm sút uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật. Có thể đơn cử một số vụ án oan nổi tiếng như: Vụ án oan đối với ông Nguyễn Thanh Chấn – người bị tù oan 10 năm về tội "Giết người"; Vụ “Người tù thế kỷ” Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận, với hai lần bị kết án oan về tội "Giết người" và ông được minh oan sau hơn 17 năm ngồi tù; Vụ án oan đối với ông Trần Văn Thêm ở Bắc Ninh trong vụ án "Giết người, cướp của" xảy ra cách đây 46 năm,...
Xác định được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề oan sai trong tố tụng hình sự, ngày 26/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 96/2015/QH13 về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Tiếp đến, ngày 30/82016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1681/QĐ- TTg về chương trình thực hiện Nghị quyết số 96/2015/QH13 của Quốc hội theo tinh thần nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội”.
Khái niệm, đặc điểm của các vụ án oan, sai
Như thế nào được xem là “Án oan”?
Theo từ điển tiếng Việt thì “oan” là bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý. Ví dụ: Kết tội một người khi người đó không thực hiện hành vi phạm tội hoặc kết án họ ở một tội nặng hơn so với hành vi mà họ đã thực hiện. Chẳng hạn như: kết tội họ phạm tội "Giết người" trong khi các chứng cứ cho thấy họ phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người.
Nghĩa thông thường của từ “sai’’ được hiểu là “không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi”. Trong tố tụng hình sự (TTHS) việc giải quyết vụ án sai là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) giải quyết vụ án được giao một cách không khách quan, trái với những quy định của pháp luật. Tuy nhiên, oan và sai trong TTHS là hai hiện tượng hoàn toàn khác nhau nhưng có mối quan hệ với nhau: Việc làm “oan” người vô tội luôn luôn là hệ quả của hành vi trái (sai) pháp luật, còn “sai” được hiểu là tính chất của hoạt động hoặc chất lượng giải quyết vụ án hình sự của CQTHTT.
Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp hành vi sai pháp luật của CQTHTT không dẫn đến việc làm oan người vô tội. Ví dụ: Trong quá trình điều tra, Điều tra viên đã hỏi cung bị can không đúng quy định của luật TTHS (hỏi cung ban đêm,...) hoặc do thiếu trách nhiệm trong việc đánh giá chứng cứ của vụ án, thẩm phán đã áp dụng điều luật quy định tội phạm của Bộ luật Hình sự không phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Những trường hợp sai này không thuộc nội hàm khái niệm oan. Do vậy, “oan” và “sai” không được đồng nhất với nhau. Ta không nên dùng cụm từ “oan sai” mà chỉ sử dụng cụm từ “oan, sai” hoặc oan, sai độc lập trong những tình huống thích hợp. Sự nhầm lẫn trên mặc dù chỉ là về mặt ngôn ngữ, nhưng trong khoa học pháp lý thì ngôn ngữ pháp lý phải được sử dụng một cách chính xác, đặc biệt là CQTHTT và người tiến hành tố tụng.
Căn cứ pháp lý để xác định một công dân bị làm oan, sai
Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan trong TTHS là các quyết định mang tính gỡ tội, hoặc không xử lý một hay một số hành vi phạm tội trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi. Nhìn chung, các nước đều quy định căn cứ xác định một công dân bị oan là một phán quyết của Toà án, đây có thể là một phán quyết sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Tuy nhiên, một số nước lại chỉ nhấn mạnh việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan khi Toà phúc thẩm tuyên vô tội (hủy bản án kết tội). Khác với pháp luật của một số nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam của chúng ta thừa nhận một người bị oan trong mọi giai đoạn TTHS. Đây là điểm ưu việt của pháp luật nước ta, có như vậy thì quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan mới được bảo vệ một cách triệt để. Quyết định mang tính minh oan là quyết định tố tụng đặc thù của các CQTHTT, những quyết định chứng tỏ nỗi oan khuất của một người đã được làm sáng tỏ.
Tuỳ thuộc vào các giai đoạn tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể ra một trong các quyết định được quy định trong Bộ luật TTHS, cụ thể như sau:
- Quyết định đình chỉ điều tra (Điều 248);
- Quyết định đình chỉ vụ án (Điều 282, 359);
- Bản án có hiệu lực tuyên bị cáo không phạm tội;
- Quyết định của Toà án giảm nhẹ hình phạt một cách đáng kể hoặc áp dụng điều khoản về tội danh nhẹ hơn.
Nguyên nhân và hậu quả của các bản án oán, sai
Nguyên nhân
Theo một số chuyên gia pháp luật, nguyên nhân dẫn đến án oan sai có nhiều nguyên nhân, bao gồm: do trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức của Điều tra viên hạn chế, dẫn đến sự chủ quan trong quá trình điều tra; khởi tố, truy tố khi chưa đủ cơ sở buộc tội; chưa bảo đảm nguyên tắc “suy đoán vô tội”, hồ sơ vụ án mang nặng tính buộc tội. Các cơ quan tố tụng cũng chưa thật sự phối hợp chặt chẽ, quyết liệt trong việc phát hiện oan sai, các cơ quan chưa thực hiện tốt chức năng giám sát lẫn nhau trong quá trình điều tra, xét xử.
Ngoài ra, bệnh thành tích cũng như áp lực “chỉ tiêu” số vụ án được khởi tố, truy tố và xét xử của các cơ quan tố tụng cũng một phần dẫn đến oan sai. Tình trạng “hình sự hóa dân sự” xảy ra ở nhiều địa phương, tiêu biểu là vụ án "quán cà-phê Xin Chào" xảy ra tại huyện Bình Chánh (TP. Hồ Chí Minh) vào năm 2016. Còn tồn tại tình trạng bức cung, nhục hình, ép cung, mớm cung. Chức năng kiểm sát điều tra của VKS nhiều khi không được thực hiện một cách đúng pháp luật, chủ yếu dựa vào nội dung của Bản kết luận điều tra từ đó ban hành bản cáo trạng một cách rập khuân, máy móc. Trong khi đó, hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật ở nước ta vẫn có những bất cập, nhiều quy định chưa đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện dẫn đến bỏ lọt tội phạm và gây oan sai.
Hậu quả
Đối với người bị oan, sai thì hậu quả là vô cùng lớn và không thể định lượng một cách chính xác. Nhiều trường hợp, hậu quả của án oan sai đặc biệt là án oan với mức án cao nhất là tử hình hoặc chung thân thì không thể khắc phục. Hậu quả của các bản án này không chỉ gây thiệt hại cho bản thân người bị kết án mà còn với gia đình, người thân của họ. Mặc dù những người phải gánh chịu oan sai đã trở về với gia đình, cộng đồng, nhưng Nhà nước đã phải bồi thường số tiền rất lớn cho sai phạm của một vài cá nhân. Những người có trách nhiệm liên quan đã bị xử lý, ngoài việc ảnh hưởng nghiêm trọng về tinh thần, thể chất, uy tín của người bị kết án, gia đình và tạo nên sự bức xúc trong dư luận xã hội làm mất lòng tin của nhân dân vào đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hiện tượng làm oan người vô tội cũng như bỏ lọt tội phạm đều để lại những hậu quả vô cùng nặng nề đối với xã hội. Do đó, muốn khắc phục cả hai hiện tượng trên thì các CQTHTT trước hết phải thực hiện tốt công tác tiếp nhận, quản lý và xử lý tin báo tội phạm để không bỏ lọt tội phạm và hạn chế làm oan người vô tội trong đó vai trò của Luật sư là rất quan trọng.
Vai trò của Luật sư trong việc phòng ngừa và phát hiện các vụ án có dấu hiệu oan, sai
Các công trình nghiên cứu và tổng hợp về các vụ án oan, sai trên thực tế cho thấy phần lớn các vi phạm nghiêm trọng dẫn đến các vụ án oan, sai đều xuất phát từ giai đoạn điều tra, truy tố. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng cho thấy Luật sư luôn đóng vai trò chính trong việc làm sáng tỏ hầu hết các vụ án oan, sai. Với tư cách là những chuyên gia pháp lý, với lòng yêu nghề, sự dũng cảm giới Luật sư đã đấu tranh bền bỉ, sáng tạo và dũng cảm chỉ ra những chứng cứ ngụy tạo, các vi phạm tố tụng nghiêm trọng, sự thật được làm sáng tỏ và minh oan cho những người vô tội. Để tránh việc ép cung, bức cung các đối tượng bị tình nghi phạm tội của người tiến hành tố tụng (Điều tra viên) thì cần phải có Luật sư, trong đó Điều tra viên, Kiểm sát viên là người buộc tội còn Luật sư bào chữa là người gỡ tội. Sự tham gia của Luật sư trong quá trình điều tra với vai trò đối trọng sẽ làm giảm tính chất “buộc tội”, ngăn ngừa tình trạng đánh đập, ép cung, mớm cung đối với bị can, bị cáo trong giai đoạn điều tra nói riêng và quá trình tố tụng hình sự nói chung. Để đảm bảo cho việc bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp cho bị can, bị cáo đạt hiệu quả cao nhất, đặc biệt là trong các vụ án có hiệu oan sai, ngoài việc trau dồi kiến thức pháp luật, kinh nghiệm và trách nhiệm đối với công việc thì các Luật sư nên chú ý một số vấn đề sau đây:
Kỹ năng tiếp xúc bị can, bị cáo tại nơi giam giữ
Trên thực tế, các Luật sư chỉ có thể tiếp xúc với các bị can, bị cáo khi đã hoàn tất thủ tục bào chữa và được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Tại thời điểm này, Luật sư chưa có nhiều thông tin về vụ án nói chung và về thân chủ của mình nói riêng nên việc tiếp xúc bị can lần đầu tại nơi giam giữa là hết sức quan trọng. Để cho buổi tiếp xúc đạt kết quả tốt và tạo được sự tin tưởng của thân chủ đối với người bào chữa thì Luật sư phải xuất hiện với một tâm thế tự tin, lạc quan về vụ án và có sự thông tin kịp thời tình hình sức khỏe cũng như các vấn đề khác có liên quan đến gia đình họ.
Để làm được việc này trước đó Luật sư phải gặp gỡ gia đình của bị cán bị cáo để nắm được thông tin về vụ án cũng như tình trạng sức khỏe và các vấn đề có liên quan. Khi tiếp xúc với bị can, Luật sư cố gắng thể hiện sự gần gũi, chân thành với bị can, bị cáo nhằm trấn án tinh thần và tạo niềm tin cho họ.
Về nguyên tắc, khi tiếp xúc với bị can tại giam giữ thì đều có sự tham gia của Điều tra viên hoặc Giám thị trại giam nên Luật sư phải chấp hành các quy định về việc tiếp xúc bị can tránh tình trạng bị nhắc nhở hoặc bị lập biên bản do vi phạm. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp xúc, Luật sư phải tận dụng tối đa các khoảng trống khi Điều tra viên hoặc giám thị để trấn an hoặc có những câu hỏi hay sự dặn dò cần thiết đối với thân chủ của mình. Luật sư luôn luôn là người được các bị can bị cáo tin tưởng nhất vì vậy thần thái, ngôn ngữ cơ thể hoặc ánh mắt của Luật sư đối với thân chủ tại nơi giam giữ là hết sức quan trọng. Luật sư phải nhớ và luôn luôn nhắc nhở đối với thân chủ của mình phải nói thật với mình về việc có phải họ là người thực hiện hành vi phạm tội hay không, động cơ mục đích của việc phạm tội, các đồng phạm (nếu có).
Trên thực tế, nếu như bị oan thì đa số các bị can đều không thừa nhận hành vi phạm tội và thường xuyên kêu oan nhưng cũng có những trường hợp bị can nhận tội thay cho người khác hoặc do quá khiếp sợ trước cơ quan điều tra mà nhận tội. Vì vậy, Luật sư phải xem xét, đánh giá chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án để xác định tính chính xác đối với lời khai của thân chủ mình.
Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án và kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng về những vi phạm tố tụng nghiêm trọng dẫn đến oan, sai
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, mặc dù thân chủ của mình nói rằng họ không thực hiện hành vi phạm tội nhưng không vì thế mà Luật sư tin tưởng tuyệt đối vào những lời khai này để rồi chủ quan hoặc có sẵn định kiến rằng thân chủ của mình vô tội. Có thể Luật sư tham gia vụ án ở nhiều giai đoạn khác nhau nhưng khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Luật sư nên đọc hồ sơ với tâm thế của một thẩm phán nhằm mục đích tìm sự thật của vụ án. Sau khi có nhận thức đầy đủ và khách quan về vụ án thì Luật sư mới nên áp dụng kỹ năng và quyền hạn của người bào chữa để giúp cho thân chủ của mình cũng như lời khai nhận của thân chủ để xây dựng luận cứ về việc bào chữa cho thân chủ.
Trong quá trình bào chữa cho bị can, bị cáo Luật sư phải đặc biệt quan tâm và lưu ý các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng hình sự ngay từ khâu giải quyết tin báo tội phạm, khởi tố điều tra, truy tố và xét xử tủy theo từng vụ án cụ thể. Sau khi xác định chính xác về việc các cơ quan tiến hành tố tụng không có vi phạm tố tụng nghiêm trọng hoặc có vi phạm nhưng những vi phạm đó không ảnh hưởng đến bản chất vụ án thì Luật sư mới xem xét đến luật nội dung trên cơ sở xem xét hành vi thực tế của bị can, bị cáo để xây dựng phương án bào chữa theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và thấy rằng việc kêu oan của bị cán bị cáo là đúng thì Luật sư phải xây dựng phương án bào chữa theo hướng yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc yêu cầu tòa án tuyên bị cáo vô tội tùy theo các giai đoạn cụ thể của từng vụ án. Bản kiến nghị của Luật sư phải nêu rõ được những dấu hiệu vi phạm tố tụng nghiêm trọng, có hay không có chứng cứ buộc tội, các chứng đã được cơ quan thu thập có đủ để kết tội bị can hay không, có hay không việc bực cung nhục hình trong quá trình điều tra cũng như việc không thực hiện các yêu cầu của bị can, bị cáo,
Bản kiến nghị về việc yêu cầu đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án gửi trực tiếp đến cơ quan điều tra và VKS cùng cấp. Bản kiến nghị của Luật sư cũng nên cùng lúc gửi đến các cơ quan giám sát việc thực thi pháp luật như các ban chuyên trách của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban mặt trận tổ quốc và các cơ quan truyền thông. Lưu ý, sau khi kết thúc điều tra (đã có bản kết luận điều tra) hoặc kết thúc giai đoạn truy tố (đã có bản cáo trạng) thì các tài liệu trong hồ sơ vụ án không bị coi là tài liệu mật nên tùy theo từng trường hợp, từng loại tài liệu mà Luật sư có thể cung cấp kèm theo bản kiến nghị đến các cơ quan giám sát và báo chí. Phải hết sức thận trọng khi in ấn, cung cấp các bút lục có trong hồ sơ vụ án cho báo chí và mạng xã hội để tránh vi phạm pháp luật đáng tiếc.
Kỹ năng tranh trụng của Luật sư tại các phiên tòa hình sự xét xử các vụ án có dấu hiệu oan, sai
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục ghi nhận, nâng cao vai trò tranh tụng của Luật sư tại phiên tòa. Để đảm bảo việc tranh tụng hiệu quả, thuyết phục được Hội đồng xét xử và bào chữa tốt nhất cho thân chủ, tôi cho rằng Luật sư cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, cần nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án bao gồm: Bản cáo trạng, Bản kết luận điều tra của cơ quan điều tra, các văn bản pháp luật liên quan tới vụ án. Nghiên cứu kỹ văn bản tố tụng và các tài liệu liên quan tới vụ án. Đặc biệt, lưu ý về thẩm quyền điều tra và thực hiện các hoạt động điều tra, nghiên cứu kỹ các kết quả giám định, nên đọc bản kết luận điều tra và bản cáo trạng sau khi đã đọc các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Luật sư là người nắm rõ và tổng hợp được tất cả những vấn đề của vụ án, có sự đánh giá, phân tích khách quan đến từng chi tiết chứng cứ, tìm ra những mâu thuẫn trong lời khai, minh chứng là cơ sở để lập luận bảo vệ cho thân chủ của mình tại phiên tòa.
Thứ hai, cần gặp gỡ trao đổi trước khi phiên tòa được tiến hành nhằm củng cố tinh thần và niềm tin cho bị can, bị cáo, đặt ra các câu hỏi để hướng bị can, bị cáo nhớ, tường thuật lại tình tiết xảy ra trong vụ án, trả lời một cách trung thực, khách quan tại phiên tòa. Bên cạnh đó, cũng cần phải có kiến thức, kinh nghiệm trong việc hỏi, lấy lời khai khi tham gia tiếp xúc gặp gỡ bị can, bị cáo; có kinh nghiệm sử dụng các thiết bị để lưu trữ các thông tin do bị can, bị cáo cung cấp.
Thứ ba, cần thu thập một cách đầy đủ nhất các tài liệu chứng cứ quan trọng nhằm gỡ tội hoặc giảm nhẹ tội cho thân chủ trên tinh thần tuân thủ pháp luật, không đi ngược lại với đạo đức nghề nghiệp của Luật sư; chuẩn bị kỹ các câu hỏi và chiến thuật hỏi đối với bị cáo, bị hại, nhân chứng và người liên quan theo hướng có lợi nhất để bảo vệ cho thân chủ.
Thứ tư, trong quá trình tham dự phiên tòa Luật sư phải chú ý lắng nghe kết hợp ghi chép tốc ký, Luật sư phải thực sự linh hoạt, ứng biến trong các tình huống diễn biến tại phiên tòa; Luật sư phải biết vận dụng nhuần nhuyễn kiến thức pháp lý và có chiến thuật trong việc đưa ra các câu hỏi cho người làm chứng, người liên quan để họ cung cấp các thông tin một cách chính xác, khách quan khi những tình tiết trong vụ án có tính chất mâu thuẫn bất hợp lý vận dụng để bảo vệ cho thân chủ.
Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HẢI |