Quy định của pháp luật về Giao dịch liên quan
Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Chứng khoán 2019 và các văn bản hướng dẫn không có khái niệm thế nào là Giao dịch liên quan mà chỉ đưa ra định nghĩa về Người có liên quan và các hợp đồng, giao dịch được xem là Giao dịch liên quan (1). Tuy nhiên, khái niệm về Giao dịch liên quan lại được quy định tại Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 về việc ban hành và công bố sáu (06) chuẩn mực kế toán Việt Nam (Đợt 3) (“Quyết định 234”), cụ thể: “Giao dịch giữa các bên liên quan là việc chuyển giao các nguồn lực hay các nghĩa vụ giữa các bên liên quan, không xét đến việc có tính giá hay không” (2).
Khái niệm về Người có liên quan được quy định tại khoản 23 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 và khoản 46 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019. Trong khi đó, Quyết định 234 lại đề cập tới khái niệm Các bên liên quan, theo đó: “Các bên liên quan: Các bên được coi là liên quan nếu một bên có khả năng kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể đối với bên kia trong việc ra quyết định các chính sách tài chính và hoạt động”. Nhìn chung, dù được sử dụng với thuật ngữ nào thì Người có liên quan hay Các bên liên quan đều có chung các đặc trưng sau: (i) mối quan hệ đặc biệt với chủ thể; và (ii) có khả năng ảnh hưởng, chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Điều 167 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về việc chấp thuận hợp đồng, giao dịch giữa công ty và Người có liên quan. Theo đó, không phải tất cả các giao dịch giữa công ty với Người có liên quan quy định tại khoản 46 Điều 4 Luật chứng khoán 2019 và khoản 23 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 đều là giao dịch liên quan, mà chỉ những hợp đồng, giao dịch với những đối tượng được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 167 Luật Doanh nghiệp 2020 mới được xem là giao dịch liên quan.
Việc phân định thẩm quyền thông qua giao dịch liên quan dựa trên giá trị của giao dịch (3), trừ việc cấp khoản vay cho thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), người quản lý khác không phải cổ đông và những cá nhân, tổ chức (trừ tổ chức là các công ty con trong cùng tập đoàn hoặc các công ty hoạt động theo nhóm công ty, bao gồm công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế) có liên quan đến đối tượng này thì thẩm quyền thuộc về Đại hội đồng cổ đông mà không cần xem xét đến giá trị của giao dịch (4). Theo đó, Đại hội đồng cổ đông có thẩm quyền thông qua các giao dịch sau:
- Các giao dịch, hợp đồng có giá trị từ 35% tổng tài sản trở lên hoặc giao dịch dẫn đến tổng giá trị giao dịch phát sinh trong vòng 12 tháng kể từ ngày thực hiện giao dịch đầu tiên có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản ghi trên báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỉ lệ, giá trị khác nhỏ hơn theo quy định của Điều lệ công ty.
- Hợp đồng, giao dịch vay, bán tài sản có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản ghi trên báo cáo tài chính gần nhất giữa công ty và cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên hoặc người có liên quan của cổ đông đó.
Các giao dịch, hợp đồng không thuộc các trường hợp nêu trên sẽ thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị.
Như vậy, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị sẽ phải phê duyệt thông qua nghị quyết cho từng lần phát sinh giao dịch. Khi phát sinh giao dịch liên quan theo quy định tại Điều 167 Luật Doanh nghiệp 2020 và Điều 293 Nghị định 155/2020/NĐ-CP, các công ty đại chúng sẽ áp dụng quy định tại Điều lệ công ty và quy định của pháp luật (trong trường hợp Điều lệ chưa quy định) để xác định thẩm quyền phê duyệt thuộc Đại hội đồng cổ đông hay Hội đồng quản trị và thực hiện việc thông qua theo trình tự, thủ tục được quy định trong các văn bản quy phạm nội bộ của công ty. Đồng thời, khi thực hiện các giao dịch liên quan, công ty đại chúng bắt buộc ký kết hợp đồng bằng văn bản theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện(5). Do đó, trong hồ sơ xin phê duyệt nội bộ bắt buộc phải có dự thảo Hợp đồng hoặc thông báo những nội dung chủ yếu của giao dịch.
Giao dịch liên quan có thể bị một bên thứ ba, như cổ đông hoặc chủ nợ chất vấn nếu giao dịch đó không nhận được các phê duyệt cần thiết theo quy định của pháp luật hoặc không được chứng minh là vì lợi ích tốt nhất của cổ đông và công ty tại thời điểm giao dịch đó được giao kết hoặc thực hiện. Giao dịch liên quan bị vô hiệu theo quyết định của Tòa án hoặc theo quy định của pháp luật khi được ký kết không đúng theo quy định; người ký kết hợp đồng, giao dịch, cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có liên quan phải liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh, hoàn trả cho công ty khoản lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng, giao dịch đó(6).
Thực tiễn áp dụng tại các công ty đại chúng
Cách thức để nhận diện giao dịch liên quan, thẩm quyền và trình tự phê duyệt giao dịch liên quan đã được quy định rõ tại Luật Doanh nghiệp 2020 và Nghị định 155/2020/NĐ-CP. Ủy ban chứng khoán nhà nước cũng đã phát hành và thường xuyên cập nhật Bộ nguyên tắc quản trị của công ty theo thông lệ tốt nhất, Cẩm nang quản trị công ty để các công ty đại chúng tham khảo, áp dụng đúng các quy tắc quản trị theo quy định và phù hợp tại doanh nghiệp của mình, trong đó dành nguyên một chương để trình bày chi tiết về giao dịch với người có liên quan(7).
Việt Nam đang nỗ lực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để thực hiện việc nâng hạng thị trường chứng khoán, từ cận biên sang thị trường mới nổi. Trong đó, việc yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về quản trị và minh bạch trong công bố thông tin cũng là yếu tố để giúp cho việc đánh giá nâng hạng thị trường. Các công ty đại chúng đa phần đều ý thức được việc tuân thủ các quy định liên quan trên thị trường chứng khoán và Ủy ban chứng khoán nhà nước cũng đẩy mạnh việc giám sát, kiểm tra việc tuân thủ của các công ty trên thị trường. Tuy nhiên, khi áp dụng việc phê duyệt các giao dịch liên quan theo quy định của pháp luật và Điều lệ vào thực tế vận hành, các công ty đại chúng có tần suất giao dịch liên quan phát sinh nhiều trong năm tài chính lại gặp khó khăn trong việc thực hiện. Theo quy định, Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị sẽ thực hiện việc phê duyệt thông qua nghị quyết cho từng lần phát sinh giao dịch và đính kèm giao dịch xin phê duyệt là dự thảo của hợp đồng hoặc thông báo nội dung chủ yếu của giao dịch. Đồng thời, công ty đại chúng sẽ phải công bố thông tin bất thường trong vòng 24h đối với nghị quyết thông qua các giao dịch liên quan.
Các công ty cổ phần nói chung và công ty đại chúng tại Việt Nam nói riêng đều có xu hướng tổ chức theo mô hình tập đoàn với nhiều cấu trúc sở hữu, bao gồm công ty mẹ, công ty con và các công ty liên kết. Thực tiễn cho thấy, phần lớn các giao dịch liên quan được ghi nhận hiện nay là các giao dịch giữa công ty mẹ và công ty con, giữa các công ty con với nhau, hoặc với các công ty liên kết và các bên liên quan khác của người quản lý doanh nghiệp. Các giao dịch này về bản chất nhằm mục đích tối ưu hóa nguồn lực, phối hợp hoạt động kinh doanh và tạo ra lợi thế cạnh tranh chung cho toàn tập đoàn. Các giao dịch biểu hiện dưới nhiều hình thức, từ các hoạt động tài chính như cho vay vốn ngắn hạn, cung cấp bảo lãnh; hoạt động thương mại như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho đến việc chia sẻ chi phí quản lý chung hay chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ... Một đặc điểm chung và quan trọng của các giao dịch nội bộ này là tần suất phát sinh cao và có tính chất lặp lại trong suốt năm tài chính, xuất phát từ nhu cầu vận hành thường xuyên của cả hệ thống. Số lượng của một loại giao dịch có thể phát sinh hàng trăm lần trong một năm, đồng thời, số lượng giao dịch dẫn đến tổng giá trị giao dịch phát sinh trong vòng 12 tháng kể từ ngày phát sinh giao dịch đầu tiên có giá trị từ 35% trở lên tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỉ lệ, giá trị khác nhỏ hơn theo Điều lệ công ty cũng chiếm tỉ lệ lớn. Theo đúng quy định, khi phát sinh giao dịch liên quan, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị sẽ phải thực hiện việc phê duyệt cho từng lần phát sinh của một giao dịch. Nếu tuân thủ nghiêm túc yêu cầu phê duyệt cho từng lần giao dịch riêng lẻ, doanh nghiệp sẽ phải xử lý một khối lượng công việc hành chính rất lớn liên quan đến việc tổ chức họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản để ban hành nghị quyết tương ứng. Việc này có thể gây ra sự chậm trễ không cần thiết, ảnh hưởng đến tính linh hoạt và kịp thời trong hoạt động kinh doanh, đồng thời tạo ra một gánh nặng đáng kể về thời gian và nguồn lực cho bộ máy quản trị.
Nhằm hài hòa giữa yêu cầu tuân thủ pháp luật và hiệu quả vận hành, một cơ chế thực tiễn đã được nhiều công ty đại chúng áp dụng. Thay vì xin chấp thuận cho từng giao dịch riêng lẻ, các công ty đại chúng xây dựng một nghị quyết khung trình Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị phê duyệt. Nghị quyết này thông qua chủ trương thực hiện cho các nhóm giao dịch liên quan có tính chất tương tự, dự kiến phát sinh trong một kỳ hoạt động (thường là một năm tài chính), đồng thời là căn cứ pháp lý nội bộ để công ty thực hiện giao dịch và tuân thủ việc công bố thông tin theo quy định.
Công tác thanh tra, giám sát của Ủy ban chứng khoán nhà nước đối với các công ty đại chúng liên quan đến tình hình thực hiện giao dịch liên quan
Cơ sở pháp lý cho việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán được quy định tại Nghị định 156/2020/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 128/2021/NĐ-CP. Các văn bản này đã thiết lập một khung chế tài cụ thể đối với các hành vi vi phạm quy định về quản trị công ty áp dụng cho công ty đại chúng (8).
Thực tiễn thi hành pháp luật được phản ánh qua thông tin công bố về hoạt động thanh tra và giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho thấy việc áp dụng các chế tài này là rất phổ biến. Đáng chú ý, một số lượng lớn quyết định xử phạt được ban hành có liên quan đến hành vi vi phạm quy định về quản trị công ty nói chung và đặc biệt là vi phạm thủ tục phê duyệt các giao dịch với bên liên quan nói riêng. Một số trường hợp điển hình bao gồm:
- Phạt Công ty Cổ phần Đầu tư dịch vụ Tài chính Hoàng Huy số tiền 137.500.000 đồng theo Quyết định số 1357/QĐ-XPHC ngày 05/12/2024 của Ủy ban chứng khoán nhà nước đối với hành vi vi phạm quy định về giao dịch với cổ đông, người quản lý doanh nghiệp và người có liên quan của các đối tượng này theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 15 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 13 Điều 1 Nghị định số 128/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021. Theo Báo cáo tài chính, riêng năm 2022 đã kiểm toán, Công ty cổ phần Đầu tư Dịch vụ Tài chính Hoàng Huy có giao dịch doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ với bên liên quan (công ty con và là người có liên quan của người nội bộ của Công ty cổ phần Đầu tư Dịch vụ Tài chính Hoàng Huy) gồm CTCP Xây dựng Thịnh Hiệp (theo Hợp đồng thuê văn phòng ngày 01/11/2017 và Phụ lục Hợp đồng ngày 01/01/2022 (có hiệu lực đến 31/12/2024) và CTCP Xây dựng Địa ốc Thịnh Phát (theo Hợp đồng thuê văn phòng ngày 19/6/2018 và Phụ lục hợp đồng ngày 19/6/2022 (có hiệu lực đến 18/6/2023). Tuy nhiên, đến ngày 24/7/2023, Hội đồng quản trị của Công ty cổ phần Đầu tư Dịch vụ Tài chính Hoàng Huy mới có Nghị quyết số 06/2023/NQ-HĐQT thông qua hợp đồng cho thuê Văn phòng với CTCP Xây dựng Thịnh Hiệp và CTCP Xây dựng Địa ốc Thịnh Phát).
- Phạt Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh số tiền 125.000.000 đồng (Một trăm hai mươi lăm triệu đồng) theo Quyết định số 132/QĐ-XPHC ngày 25/04/2025 đối với hành vi vi phạm quy định về giao dịch với cổ đông, người quản lý doanh nghiệp và người có liên quan của các đối tượng này. Theo Báo cáo tài chính riêng và hợp nhất năm 2023 đã được kiểm toán và Báo cáo tình hình quản trị công ty 6 tháng đầu năm 2024, Công ty có giao dịch với Công ty cổ phần Dịch vụ và Kỹ thuật Cơ điện lạnh REE (công ty con, đồng thời là tổ chức có liên quan của người nội bộ Công ty); Công ty cổ phần Điện máy REE (công ty con, đồng thời là tổ chức có liên quan của người nội bộ Công ty); Công ty cổ phần Thủy điện Thác Mơ (công ty liên kết, đồng thời là tổ chức có liên quan của người nội bộ), các giao dịch này chưa được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị Công ty thông qua.
- Phạt với Công ty cổ phần đầu tư Bao Bì Tiền Giang số tiền 125.000.000 đồng (Một trăm hai mươi lăm triệu đồng) theo Quyết định số 690/QĐ-XPHC ngày 27/06/2024, của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với hành vi vi phạm quy định về giao dịch với cổ đông, người quản lý doanh nghiệp và người có liên quan của các đối tượng này. Tại Báo cáo tài chính năm 2022, năm 2023 đã được kiểm toán và 05 tháng đầu năm 2024, Công ty đã phát sinh giao dịch với các bên liên quan, cụ thể: Tổng Công ty Lương thực Miền Nam, Công ty Lương thực Tiền Giang, Công ty Lương thực Trà Vinh, Công ty Lương thực Bến Tre, Công ty Lương thực Long An, Công ty Bột mì Bình Đông, Công ty cổ phần (CTCP) Lương thực Bình Định, CTCP Xuất nhập khẩu Nông sản Thực phẩm An Giang, Công ty Lương thực Thực phẩm An Giang, CTCP Xuất nhập khẩu Nông sản Thực phẩm Cà Mau nhưng chưa được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị thông qua các giao dịch này theo thẩm quyền.
- Phạt Công ty cổ phần Thép Việt - Ý số tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng) theo Quyết định số 33/QĐ-XPVPHC ngày 12/02/2020 đối với hành vi vi phạm quy định pháp luật quản trị công ty về giao dịch với người có liên quan của cổ đông. Theo Báo cáo tài chính năm 2018 đã được kiểm toán của Công ty, trong năm 2018, Công ty có các giao dịch với Công ty TNHH Thương mại Thái Hưng là tổ chức có liên quan của Công ty cổ phần Thương mại Thái Hưng (cổ đông Công ty). Tuy nhiên, giao dịch giữa Công ty với Công ty TNHH Thương mại Thái Hưng trong năm 2018 chưa được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị thông qua.
Dựa vào các quyết định xử phạt điển hình như nêu ở trên, có thể nhận thấy các quyết định xử phạt của Ủy ban chứng khoán nhà nước có xu hướng áp dụng đối với các công ty có hành vi thực hiện giao dịch liên quan khi chưa được cấp có thẩm quyền chấp thuận, hoặc chỉ hoàn tất thủ tục phê duyệt sau khi giao dịch đã diễn ra.
Trong khi đó, một khoảng trống đáng chú ý trong hoạt động thanh tra, giám sát là sự vắng mặt của các quyết định xử phạt đối với việc áp dụng nghị quyết khung – một giải pháp thực tiễn được nhiều công ty đại chúng sử dụng để phê duyệt trước cho các nhóm giao dịch cùng loại, phát sinh nhiều lần. Sự thiếu vắng này có thể hàm ý rằng, dù chưa được quy định rõ ràng trong văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan quản lý có thể đang tạm thời chấp nhận hoặc chưa coi đây là một hành vi vi phạm cần xử lý ngay, qua đó gián tiếp thừa nhận tính hợp lý của phương thức này trong việc giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp.
Kiến nghị
Để đảm bảo cân bằng giữa hai mục tiêu: vừa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật, vừa duy trì hiệu quả và sự thông suốt trong vận hành của các công ty đại chúng, tác giả kiến nghị cần điều chỉnh quy định về thủ tục phê duyệt các giao dịch liên quan như sau:
- Bổ sung quy định về cơ chế "phê duyệt khung": Cần chính thức hóa trong các văn bản pháp luật việc cho phép Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị được quyền thông qua một nghị quyết khung. Nghị quyết này sẽ phê duyệt chủ trương chung cho các nhóm giao dịch với bên liên quan có cùng bản chất, dự kiến phát sinh lặp lại nhiều lần trong một kỳ hoạt động (thường là năm tài chính), thay vì phải phê duyệt riêng lẻ từng lần.
- Linh hoạt yêu cầu về hồ sơ trình duyệt và tăng cường phân cấp, ủy quyền: Sửa đổi quy định theo hướng không bắt buộc phải có dự thảo hợp đồng chi tiết trong hồ sơ trình duyệt chủ trương. Thay vào đó, hồ sơ chỉ cần nêu rõ các nội dung trọng yếu như: đối tác, phạm vi giao dịch và các giới hạn về tổng giá trị. Các nội dung chi tiết sẽ được ủy quyền cho người quản lý khác quyết định và triển khai, dựa trên các nguyên tắc đã được cơ quan có thẩm quyền cao hơn phê duyệt.
- Khoản 23 Điều 4 và Điều 167 Luật Doanh nghiệp
- Mục 5 Chuẩn mực số 26 QĐ 234/2003/QĐ-BTC
- Khoản 2, 3 Điều 167 Luật Doanh nghiệp; Điều 293 NĐ 155/2020/NĐ-CP
- Điểm a khoản 4 Điều 293 NĐ 155/2020/NĐ-CP
- Khoản 1 Điều 292 NĐ 155/2020/NĐ-CP
- Khoản 5 Điều 167 Luật Doanh nghiệp 2020
- Trang 473, Chương 11 Giao dịch với người có liên quan, Cẩm nang quản trị Công ty
- Khoản 13 Điều 1 NĐ 128/2021/NĐ-CP
TRẦN THỊ THU HUYỀN
Trưởng Ban Pháp chế Tổng Công ty Cổ phần Dịch vụ Tổng hợp Dầu khí
NGUYỄN THỊ HOÀN
Luật sư, QTV - Công ty hợp danh Quản lý và Thanh lý tài sản QTV Việt Nam

