Đặt vấn đề
Tại Việt Nam, công tác quản lý luật sư được thực hiện theo nguyên tắc tự quản kết hợp với quản lý nhà nước theo quy định tại Điều 6 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 (Luật Luật sư). Tuy nhiên, những quy định trong công tác quản lý luật sư kết hợp chế độ tự quản và quản lý nhà nước hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Những bất cập trong quy định đến từ cả hai khía cạnh là chế độ tự quản và quản lý nhà nước. Từ đó, việc triển khai thực hiện quản lý luật sư trên thực tế còn nhiều thiếu sót làm ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ luật sư và quá trình hành nghề luật sư trong thực tế.
Thực trạng hạn chế, bất cập trong quy định về quản lý luật sư hiện hành
Quy định hiện tại của Luật Luật sư đã bước đầu định hướng được những nguyên tắc cơ bản trong công tác quản lý luật sư tại Việt Nam. Tuy nhiên, những quy định về việc quản lý luật sư hiện hành vẫn gặp nhiều bất cập khi chưa quy định một cách cụ thể, gây khó khăn trong công tác quản lý luật sư của các cơ quan có liên quan. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư chưa được quy định cụ thể. Luật Luật sư đã ghi nhận nội dung về nguyên tắc quản lý luật sư và hành nghề luật của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tại Điều 6. Theo đó, quy định ghi nhận nguyên tắc quản lý của các tổ chức này đối với hoạt động quản lý và hành nghề luật sư được thực hiện dựa trên “quy định của Luật này, Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam”[1] và Nhà nước có trách nhiệm thống nhất quản lý loại hình hoạt động này theo nền tảng pháp lý của Luật Luật sư hiện hành.
Tuy nhiên, nội dung này chỉ được điều chỉnh khá chung như trên và không có đề ra những tiêu chuẩn nhất định làm cơ sở chuẩn mực cho các tổ chức quản lý luật sư có sự điều chỉnh phù hợp trong điều lệ tổ chức. Trong thực tế thi hành quy định này đã xuất hiện nhiều bất cập với hệ quả nghiêm trọng. Điển hình là các sự việc sai phạm của luật sư trong quá trình hành nghề, bên cạnh nguyên nhân từ chính chủ thể vi phạm là luật sư thì trách nhiệm tự quản của tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư chưa thực hiện tốt và kiểm soát chặt chẽ cũng là một trong những yếu tố dẫn đến sai phạm của chủ thể này.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Tiêu biểu là vụ án “Nữ luật sư bị bắt vì lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm triệu đồng”. Cụ thể, ngày 30/6/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương cho biết, đã tống đạt các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và Lệnh bắt tạm giam đối với bà Nguyễn Thị Nga (SN 1988, yhành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương) để điều tra, làm rõ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tài liệu điều tra cho thấy, Nguyễn Thị Nga có nghề nghiệp là luật sư. Tháng 10/2022, Nga có ký hợp đồng dịch vụ thỏa thuận sẽ đại diện cho ông N.H.L tham gia giải quyết vụ án “tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” với chi phí là 250 triệu đồng. Trong quá trình làm đại diện theo ủy quyền cho ông N.H.L, Nguyễn Thị Nga đã nhiều lần đưa thông tin gian dối về việc cần phải đưa tiền để được tiếp cận hồ sơ, giải quyết vụ án cho ông N.H.L thắng kiện và đóng tiền tạm ứng án phí cho tòa án. Do tin tưởng nên ông N.H.L đã giao tổng số tiền là 561.000.000 đồng cho Nga. Tuy nhiên, Nga không thực hiện như cam kết mà chiếm đoạt số tiền trên của bị hại. Kết quả trong bản án không được như cam kết của bà Nga nên bị hại đã nhiều lần gọi điện thoại, nhắn tin yêu cầu Nga trả lại tiền nhưng Nga vẫn không trả[2].
Vụ việc trên đã cho thấy tầm quan trọng của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong công tác quản lý hoạt động hành nghề của các luật sư. Sai phạm đến từ chính sự sai lầm, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật và không giữ vững nguyên tắc hành nghề của chủ thể vi phạm, tuy nhiên trách nhiệm tự quản của các cơ quan và tổ chức quản lý chủ thể này cũng đóng vai trò rất quan trọng. Vì vậy, khi quy định về tự quản của các tổ chức này với thành viên luật sư tại Điều 6 không ghi nhận các quy chuẩn cụ thể để ràng buộc các tổ chức trên xây dựng điều lệ tổ chức về vấn đề này đã trở thành một thiếu sót.
Quy định về trách nhiệm giám sát quá trình tập sự chưa có cơ chế chặt chẽ. Khoản 1 Điều 15 Luật Luật sư quy định đối tượng được phép tập sự hành nghề luật sư tại các tổ chức hành nghề luật sư là người có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư và người quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật luật sư hiện hành. Bên cạnh đó, khi thực hiện việc tập sự hành nghề luật sư thì người tập sự sẽ được phân công luật sư hướng dẫn theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Luật sư. Luật sư hướng dẫn phải là người có ít nhất là ba năm kinh nghiệm trở lên và không thuộc trường hợp bị xử lý kỷ luật theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này và luật sư hướng dẫn một lúc không thể hướng dẫn quá ba người tập sự[3]. Hiện tại, trách nhiệm hướng dẫn và giám sát của luật sư hướng dẫn đối với người tập sự hành nghề luật sư đang được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 13 Thông tư số 10/2021/TT-BTP. Với tinh thần của Luật Luật sư thì chủ thể có trách nhiệm giám sát đối với người tập sự hành nghề luật sư không chỉ có luật sư hướng dẫn được tổ chức hành nghề luật sư phân công mà theo khoản 2 Điều 14 Luật Luật sư hiện hành thì Đoàn luật sư cũng có trách nhiệm giám sát việc tập sự hành nghề luật sư.
Tuy nhiên, quy định này hiện tại vẫn còn khá chung chung và việc Đoàn luật sư thực hiện trách nhiệm giám sát chưa thật sự hiệu quả. Luật Luật sư hiện hành chỉ quy định Đoàn luật sư có trách nhiệm giám sát việc thực hiện hành nghề luật sư của người tập sự nhưng chưa quy định chi tiết nội dung giám sát của chủ thể này. Trên thực tế, việc giám sát người tập sự hành nghề luật sư chỉ có một chủ thể duy nhất thực hiện là luật sư hướng dẫn được tổ chức hành nghề luật sư phân công, việc thực hiện giám sát của Đoàn luật sư chưa thật sự mạnh và hiệu quả[4]. Việc tập sự hành nghề luật sư là khoản thời gian giúp người tập sự làm quen và hiểu hơn việc hành nghề luật sư, đây cũng là một trong những giai đoạn đào tạo và cho ra đội ngũ luật sư chất lượng. Do đó, nếu chỉ có luật sư hướng dẫn trên thực tế tham gia giám sát người tập sự hành nghề luật sư dễ dẫn đến những trường hợp sai phạm trong quá trình tập sự mà Đoàn luật sư không thể kiểm soát và có những biện pháp xử lý hiệu quả.
Như vậy, quy định về trách nhiệm giám sát quá trình tập sự hành nghề luật sư của Đoàn luật sư hiện nay vẫn chỉ là quy định về mặt hình thức mà chưa có nội dung thật sự rõ ràng. Việc quy định một cách chung chung, hình thức như trên có thể dẫn đến tình trạng các chủ thể tham gia vào quá trình tập sự dễ dàng che giấu sai phạm dẫn đến chất lượng của việc tập sự hành nghề luật sư không thật sự hiệu quả làm ảnh hưởng đến chất lượng của đội ngũ luật sư trong tương lai.
Các hoạt động nâng cao kỹ năng hành nghề và ý thức chính trị chưa được đẩy mạnh. Tiêu chuẩn của luật sư được Luật Luật sư ghi nhận tại Điều 10. Trong đó, “trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt” là ba trong tám tiêu chí để công nhận chủ thể đó đạt tiêu chuẩn của một luật sư. Tiêu chí “trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật” được đặt lên hàng đầu cho thấy, có tinh thần thượng tôn Hiến pháp, pháp luật và trung thành với Đảng và Nhà nước là những yếu tố bắt buộc để trở thành luật sư và trên chặng đường hành nghề của mình, luật sư phải luôn giữ vững tinh thần này. Để thực hiện tốt điều này đòi hỏi luật sư phải luôn đặt mình trong trạng thái không ngừng nâng cao và giữ vững lập trường, ý thức chính trị đúng đắn, phù hợp với nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước đề ra. Bên cạnh đó, trách nhiệm nâng cao kỹ năng hành nghề thuộc về cá nhân của luật sư hành nghề và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư.
Tuy nhiên, Luật Luật sư hiện hành chưa ghi nhận trách nhiệm “bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật”[5] ở tổ chức hành nghề luật sư mà nội dung này được ghi nhận đối với tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư tại Điều 7. Trong thời gian vừa qua, các sai phạm của luật sư trong thực tiễn đã cho thấy tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và quản lý nâng cao ý thức chính trị của các tổ chức này với thành viên luật sư do tổ chức quản lý. Vì vậy, các sai phạm do thiếu sót trong nhận thức chính trị dẫn đến trường hợp nhiều luật sư đang trong giai đoạn hành nghề luật nhưng lại thực hiện các tội phạm có liên quan đến chính trị, gây ra ảnh hưởng tiêu cực và thể hiện bất cập trong công tác quản lý của các tổ chức trên. Ngoài ra, nhiều luật sư thiếu sự tu dưỡng về chuyên môn và đạo đức hành nghề dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng đã ngầm biểu hiện rõ trách nhiệm chưa tròn vai của các tổ chức này trong nhiệm vụ “bồi dưỡng chuyên môn” thành viên của tổ chức.
Chưa có quy định điều chỉnh về việc thông báo đăng ký hành nghề luật sư đối với luật sư hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư. Theo quy định của Luật Luật sư, việc đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư và đăng ký hành nghề của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước có thể thực hiện việc quản lý luật sư một cách hiệu quả theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước và tự quản theo quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật này. Việc đăng ký hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư được quy định tại Điều 35 Luật Luật sư. Theo đó, tổ chức hành nghề luật sư phải thực hiện các thủ tục đăng ký hoạt động tại sở tư pháp nơi có Đoàn luật sư mà trưởng văn phòng luật sư hoặc giám đốc công ty luật là thành viên. Bên cạnh đó, trong vòng bảy ngày kể từ ngày hoạt động thì trưởng văn phòng luật sư hoặc giám đốc công ty luật phải tiến hành thông báo cho Đoàn luật sư mà mình là thành viên kèm theo bản sao giấy đăng ký hoạt động. Quy định trên giúp cho sở tư pháp và Đoàn luật sư có thể quản lý hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư một cách dễ dàng. Ngoài ra, Luật Luật sư còn ghi nhận hình thức hành nghề của luật sư với tư cách cá nhân được quy định tại Điều 49. Theo đó, luật sư hành nghề với tư cách cá nhân là luật sư làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư. Với những luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân, Luật Luật sư hiện hành quy định chủ thể này phải thực hiện việc đăng ký hành nghề theo quy định tại Điều 50. Việc quản lý hành nghề luật sư của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân cũng được quy định dựa trên nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước cùng với chế độ tự quản: sở tư pháp sẽ quản lý trong việc xác nhận việc hành nghề của luật sư và Đoàn luật sư quản lý hoạt động hành nghề luật sư của chủ thể này.
Tuy nhiên, Luật Luật sư hiện hành chỉ mới ghi nhận việc đăng ký đối với tổ chức hành nghề luật sư và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân trong khi chưa ghi nhận hình thức hành nghề đối với luật sư tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư[6]. Hiện tại, chủ thể là luật sư hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư vẫn chưa có nội dung quy định việc đăng ký, xác nhận hoạt động hành nghề. Trên thực tế, các luật sư hành nghề với hình thức tham gia các tổ chức hành nghề luật sư không phải thực hiện việc đăng ký hành nghề hay một thủ tục xác nhận nào khác dẫn đến những luật sư này thực tế chịu sự giám sát phần lớn từ các tổ chức hành nghề mà họ tham gia. Thực tế này đang là một bất cập đối với công tác quản lý luật sư của sở tư pháp và Đoàn luật sư. Việc không thực hiện đăng ký của chủ thể này dẫn đến các cơ quan hữu quan không thể xác định được thời gian bắt đầu hành nghề, quản lý hoạt động hành nghề của những luật sư này. Từ đó có thể gây ra khó khăn khi xử lý những sai phạm trong quá trình hành nghề và truy cứu những vi phạm của những luật sư hành nghề dưới hình thức này trên thực tế.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý luật sư
Một là, cần quy định cụ thể hơn nội dung về trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Mặc dù Luật Luật sư đã ghi nhận nội dung về nguyên tắc quản lý luật sư và hành nghề luật của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tại Điều 6, nhưng sai phạm từ thực tiễn hành nghề của một số luật sư đã cho thấy cần nâng cao trách nhiệm tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư hơn nữa. Dự thảo Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư hiện hành ghi nhận vấn đề này tại Điều 7 với nội dung bỏ khoản 1, 2 Điều 6 Luật hiện hành và quy định theo hướng khái quát trách nhiệm này của tổ chức thực hiện theo pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước. Nhận thấy quy định này chưa thực sự rõ ràng, nhóm tác giả kiến nghị nhà làm luật cần ghi nhận rõ ràng và cụ thể hơn về trách nhiệm tự quản của các tổ chức này. Trong đó, quy định phải đáp ứng một số tiêu chí sau: (i) khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm tự quản; (ii) thẩm quyền của các tổ chức trong công tác tự quản thành viên luật sư của tổ chức; (iii) nhiệm vụ và hình thức phê bình, xử phạt đối với các tổ chức chưa thực hiện tốt vai trò tự quản thành viên của mình. Đối với quy định về trách nhiệm tự quản của các tổ chức trên, Nhà nước cần chú trọng yếu tố khuyến khích kết hợp phương pháp mệnh lệnh - phục tùng để ràng buộc các tổ chức tự giác ý thức nâng cao trách nhiệm tự quản thành viên trong nội bộ tổ chức. Hình thức phê bình, xử lý vi phạm với các tổ chức chưa thực hiện tốt công tác tự quản đối với thành viên luật sư thuộc nhiệm vụ quản lý của tổ chức, giúp các tổ chức chú trọng hơn về vấn đề tự quản, từ đó đề ra các điều khoản rõ ràng và có tính răn đe hơn trong điều lệ tổ chức. Điều này cũng giúp hạn chế tối ưu sai phạm của luật sư khi trách nhiệm liên đới xuất hiện đối với tổ chức quản lý, tránh để xảy ra tình trạng “cá nhân làm, tập thể chịu trách nhiệm”. Bởi lẽ, quy định về phê bình, xử phạt sẽ áp dụng khi tổ chức có “lỗi” hoặc thiếu sót trong phạm vi quản lý của tổ chức. Trường hợp “lỗi” thuộc về cá nhân luật sư vi phạm và tổ chức đã thực hiện tốt công tác tự quản thì chỉ cá nhân vi phạm chịu trách nhiệm đối với sai phạm mà bản thân gây ra, không xuất hiện trách nhiệm liên đới đối với tổ chức quản lý luật sư sai phạm trong trường hợp này. Quy định rõ ràng về trách nhiệm tự quản của các tổ chức quản lý luật sư sẽ góp phần xây dựng nền tảng quản lý luật sư thống nhất phạm vi quốc gia, nâng cao ý thức tự giác thực hiện tốt công tác tự quản, phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm do luật sư thành viên của tổ chức trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Hai là, cần quy định trách nhiệm của Đoàn luật sư trong công tác giám sát quá trình tập sự hành nghề luật sư chặt chẽ hơn. Luật Luật sư hiện hành đã ghi nhận trách nhiệm giám sát của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, cụ thể là Đoàn luật sư. Tuy nhiên, các quy định về công tác giám sát quá trình tập sự tại Điều 14 và Điều 15 Luật Luật sư chỉ mới ghi nhận các nguyên tắc và hoạt động hướng dẫn, giám sát tập sự của luật sư hướng dẫn. Trên thực tế, việc giám sát quá trình tập sự được thực hiện hoàn toàn bởi luật sư hướng dẫn. Nhóm tác giả cho rằng trách nhiệm của Đoàn luật sư trong việc giám sát quá trình tập sự hành nghề luật sư cần được quy định chặt chẽ hơn. Cần đưa ra nguyên tắc cho quá trình giám sát một cách minh bạch, trung thực của các Đoàn luật sư đối với người tập sự và luật sư hướng dẫn trong quá trình tập sự. Điều này giúp định hướng tinh thần cho các quy định nội dung giám sát cụ thể hơn. Quy định rõ ràng hơn về nội dung giám sát quá trình tập sự hành nghề luật sư như hình thức kiểm tra định kỳ, trách nhiệm xử lý vi phạm trong quá trình tập sự của Đoàn luật sư đối với người tập sự, cũng như những chế tài có thể áp dụng để giúp Đoàn luật sư dễ dàng xử lý những vi phạm trong quá trình tập sự hành nghề luật sư.
Ba là, cần khuyến khích tổ chức các hoạt động nâng cao kỹ năng hành nghề ở các tổ chức quản lý luật sư. Sai phạm của một số luật sư hiện nay xuất phát từ nguyên nhân trực tiếp do sự thiếu sót trong kỹ năng hành nghề và chưa giữ vững ý thức chính trị và gián tiếp do cơ chế quản lý luật sư chưa thực sự chặt chẽ của các tổ chức quản lý luật sư. Dự thảo Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư hiện hành đã có một số điểm mới thay đổi phù hợp tình hình thực tiễn hành nghề luật sư. Kế thừa nội dung Luật định, tiêu chuẩn luật sư bên cạnh giữ nguyên nội dung quy định tại Điều 10 Luật Luật sư hiện hành, dự thảo Luật Luật sư thay thế đã bổ sung thêm tiêu chuẩn về tư tưởng, bản lĩnh nghề nghiệp đối với luật sư. Bên cạnh đó, Điều 21 và Điều 7 của dự thảo đã lần lượt bổ sung trách nhiệm về bồi dưỡng lý luận chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp của thành viên luật sư trong tổ chức. Tuy nhiên, nội dung về bồi dưỡng nâng cao chuyên môn vẫn chưa được ghi nhận rõ hơn trong dự thảo. Vì vậy, nhóm tác giả kiến nghị cần bổ sung thêm nội dung về tổ chức hoạt động nâng cao kỹ năng hành nghề luật sư tại các tổ chức quản lý luật sư. Thực hiện tốt các công tác quản lý luật sư là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của các tổ chức này.
Bốn là, cần bổ sung thêm quy định về việc thông báo đăng ký hành nghề luật sư đối với luật sư hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư. Hiện tại, Luật Luật sư chỉ quy định việc đăng ký hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư và việc đăng ký hành nghề của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế thì luật sư hành nghề có thể ở tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư theo quy định tại Điều 49 Luật Luật sư hiện hành và hành nghề theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư như văn phòng luật, công ty luật. Quy định hiện hành chỉ mới ghi nhận việc đăng ký đối với tổ chức hành nghề luật sư và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân nhưng đối với đối tượng là luật sư hành nghề theo hợp đồng lao động trong tổ chức hành nghề luật sư thì vẫn chưa có quy định về việc đăng ký. Việc đăng ký hành nghề là hoạt động giúp cho Liên đoàn Luật sư và sở tư pháp nắm bắt được thông tin hành nghề của các chủ thể trên. Luật Luật sư hiện hành không quy định nghĩa vụ đăng ký hành nghề đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư là một “lỗ hổng” pháp lý. Chúng tôi cho rằng cần quy định nội dung nghĩa vụ đăng ký hành nghề đối với luật sư hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư để Liên đoàn Luật sư và sở tư pháp có thể nắm bắt được thông tin của luật sư khi hoạt động hành nghề. Bên cạnh đó, số lượng luật sư hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư chiếm phần lớn trên tổng số luật sư đang hành nghề tại Việt Nam, việc ghi nhận nghĩa vụ đăng ký đối với đối tượng này giúp cho Liên đoàn Luật sư và sở tư pháp có thể kiểm soát và quản lý phần lớn luật sư đang hành nghề tại Việt Nam.
Kết luận
Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 đã xây dựng một nền tảng pháp lý vững chắc để quản lý luật sư. Tuy nhiên, thực tiễn thực thi các quy định này đã xuất hiện nhiều bất cập, trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư chưa được quy định cụ thể; quy định về trách nhiệm giám sát quá trình tập sự chưa có cơ chế chặt chẽ; các hoạt động nâng cao kỹ năng hành nghề và ý thức chính trị chưa được đẩy mạnh, khuyến khích mặc dù luật định đã có nội hàm đề cập; chưa có quy định điều chỉnh về việc thông báo đăng ký hành nghề luật sư đối với luật sư hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần phải quy định cụ thể hơn nội dung về trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; xác định rõ trách nhiệm của Đoàn luật sư trong công tác giám sát quá trình tập sự hành nghề luật sư chặt chẽ hơn; bổ sung về tiêu chuẩn luật sư, về khuyến khích tổ chức các hoạt động nâng cao kỹ năng hành nghề ở các tổ chức quản lý luật sư; bổ sung quy định về việc thông báo đăng ký hành nghề luật sư đối với luật sư hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư.
[1] Khoản 2 Điều 6 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.
[2] Hải Ninh, Nữ luật sư bị bắt vì lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm triệu đồng, https://tiin.vn/chuyen-muc/24/Nu-luat-su-bi-bat-vi-lua-dao-chiem-doat-hang-tram-trieu-dong.html, ngày 10/09/2024.
[3] Khoản 1 Điều 14 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.
[4] Trần Văn An, Một số khó khăn, hạn chế và đề xuất, kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về luật sư, https://lsvn.vn/mot-so-kho-khan-han-che-va-de-xuat-kien-nghi-nham-sua-doi-bo-sung-hoan-thien-phap-luat-ve-luat-su1659956411.html, ngày 10/9/2024.
[5] Điều 7 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.
[6] Cổng thông tin điện tử Sở Tư pháp Thừa Thiên Huế, Những “khoảng trống” trong công tác quản lý nhà nước về luật sư, https://stp.thuathienhue.gov.vn/?gd=12&cn=82&tc=7487., ngày 10/9/2024.
Thạc sĩ TRẦN LINH HUÂN, NGUYỄN LÊ THỊ NGỌC ÁNH, HUỲNH NHẬT HÀO
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

