Sáng 09/5, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường nghe các nội dung: Tờ trình và báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch; tờ trình và báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp.
Đồng thời, Quốc hội cũng nghe báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi). Sau đó, Quốc hội thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau về dự án luật này.
Dự thảo luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) nêu đề xuất bổ sung nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất 10%.
Theo lập luận, quy định này nhằm kịp thời ngăn ngừa và giảm thiểu tình trạng thừa cân, béo phì đáng báo động ở trẻ em và thanh thiếu niên, nâng cao nhận thức và hạn chế tiêu thụ nước giải khát có đường, mang lại lợi ích về sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là giới trẻ.
Tại dự thảo luật sửa đổi mới nhất gửi các Đoàn đại biểu Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng dân tộc để lấy ý kiến trước 05/5, cơ quan soạn thảo đã có chỉnh lý về lộ trình áp thuế đối với mặt hàng nước giải khát theo tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml.
Cụ thể, từ năm 2027, mức thuế suất với mặt hàng này là 8% và từ năm 2028 là 10%.
Trước đó, tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo luật này hồi giữa tháng 3, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết về thuế suất và mức thuế đối với nước giải khát có đường, một số ý kiến đề nghị cân nhắc mức thuế cao hơn. Trong khi đó, ý kiến khác đề nghị cần có lộ trình để doanh nghiệp điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội khi đó cho rằng nước giải khát có đường là mặt hàng mới được đề xuất bổ sung vào đối tượng chịu thuế, việc quy định thuế suất ở mức hợp lý là để từng bước hạn chế việc sử dụng các sản phẩm có hàm lượng đường cao, khuyến khích doanh nghiệp sản xuất các loại nước giải khát có hàm lượng đường thấp.
Do đó, cơ quan thẩm tra đề nghị cân nhắc phương án lùi thời điểm áp thuế đối với sản phẩm này hoặc áp dụng theo lộ trình, bảo đảm thực hiện được mục tiêu chính sách song có linh hoạt hơn để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thời gian điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
Dù cơ quan soạn thảo xin giữ như dự thảo luật với lập luận quy định thuế suất 10% với nước giải khát có đường là hợp lý, nhằm khuyến khích doanh nghiệp sản xuất nước giải khát có hàm lượng đường thấp cũng như nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, song Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khi đó đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu thêm vì các hiệp hội, doanh nghiệp có nhiều ý kiến phản ánh lo ngại tăng thuế đột ngột với rượu, bia và bổ sung nước giải khát có đường vào diện thu thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ làm giảm sức mua, ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế.
Theo Chủ tịch Quốc hội, các doanh nghiệp mong có lộ trình tăng thuế phù hợp để khoan sức doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường nhiều khó khăn.
Về thuế suất và mức thuế với thuốc lá, rượu bia, nước giải khát có đường, Chủ tịch Quốc hội lưu ý phải hết sức lắng nghe ý kiến doanh nghiệp, tính toán lộ trình tăng thuế suất phù hợp, hạn chế tác động tiêu cực đến người dân, doanh nghiệp.
Ngoài nước giải khát có đường, rượu, bia và thuốc lá cũng là những mặt hàng dự kiến phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong đó, với rượu trên 20 độ và bia, mức thuế suất được đề xuất tăng theo từng năm, mỗi năm tăng 5%. Cụ thể, từ năm 2027 đến 2031, mức thuế suất cho mặt hàng này sẽ tăng từ 70% đến 90%.
Tuy nhiên, những quy định trên cũng đang có nhiều ý kiến trái chiều và việc này sẽ tiếp tục được Quốc hội đặt lên bàn nghị sự để làm cơ sở xem xét, thông qua dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 9.
Chiều 09/5, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường, nghe báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số và thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo luật này.

Ảnh minh họa.
Trước đó, trong ngày 08/5, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND; nghe tờ trình, báo cáo thẩm tra và thảo luận tại tổ về dự án Luật Tổ chức VKSND (sửa đổi).
Trong đó, báo cáo thẩm tra Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội đã tán thành sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND. Đồng thời, Ủy ban cho rằng, nội dung của dự thảo Luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất với hệ thống pháp luật.
Phạm vi sửa đổi, bổ sung tập trung vào các quy định có liên quan đến sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn của TAND theo mô hình tổ chức 03 cấp.
Ủy ban cũng tán thành quy định về tổ chức, gồm: TAND Tối cao, TAND cấp tỉnh, TAND khu vực (các Tòa án quân sự được giữ nguyên theo Luật hiện hành); kết thúc hoạt động của TAND cấp cao và TAND cấp huyện.
Ủy ban cơ bản nhất trí việc phân định lại nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp tòa án. Theo đó, TAND Tối cao được bổ sung nhiệm vụ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự mà bản án, quyết định của TAND cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của TAND cấp tỉnh đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
TAND cấp tỉnh có nhiệm vụ sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của luật; phúc thẩm tất cả các bản án, quyết định của TAND khu vực chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của TAND khu vực đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
TAND khu vực xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của luật; sơ thẩm tất cả các vụ án, vụ việc dân sự, hành chính và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của tòa án.
Ủy ban cũng cơ bản nhất trí với đề nghị tăng số lượng Thẩm phán TAND Tối cao từ 13 đến 17 người (theo quy định Luật hiện hành) lên 23 đến 27 người để có đủ nhân lực thực hiện nhiệm vụ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm mới tiếp nhận từ TAND cấp cao, bảo đảm chất lượng và thời hạn xét xử.
Liên quan đến dự án Luật Tổ chức VKSND (sửa đổi), Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội tán thành quy định của dự thảo Luật về hệ thống VKSND gồm 03 cấp (VKSND Tối cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND khu vực); kết thúc hoạt động của VKSND cấp cao và VKSND cấp huyện.
Tuy nhiên, cơ quan thẩm tra đề nghị VKSND Tối cao tiếp tục rà soát, đề xuất sửa đổi các quy định liên quan trong Luật Tổ chức VKSND hiện hành nhằm thực hiện đầy đủ, đúng đắn yêu cầu của Đảng về kết thúc hoạt động của VKSND cấp cao và VKSND cấp huyện.
Về đề xuất tăng số lượng Kiểm sát viên VKSND Tối cao, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội cho rằng đây là vấn đề quan trọng, liên quan đến chủ trương của Đảng, Kiểm sát viên VKSND Tối cao thuộc diện Ban Bí thư quản lý (hưởng phụ cấp chức vụ 1,25). Vì vậy, trước đây khi sửa Luật Tổ chức VKSND vào năm 2014 cũng phải báo cáo xin ý kiến cấp có thẩm quyền về số lượng Kiểm sát viên VKSND Tối cao.
Đối với quy định về ngạch Kiểm sát viên, dự thảo Luật đề xuất sửa tên gọi của ngạch Kiểm sát viên trung cấp thành Kiểm sát viên chính, ngạch Kiểm sát viên sơ cấp thành Kiểm sát viên. Thẩm tra nội dung này, một số ý kiến trong Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội tán thành với quy định của dự thảo Luật, để đồng bộ với quy định của Luật Cán bộ, công chức về ngạch công chức. Một số ý kiến khác đề nghị tiếp tục giữ tên gọi các ngạch Kiểm sát viên như quy định hiện hành để đồng bộ với các luật trong lĩnh vực tư pháp. Cụ thể, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Thi hành án dân sự cũng đang quy định các ngạch gồm sơ cấp, trung cấp, cao cấp.
Cũng có ý kiến cho rằng, việc sửa đổi như dự thảo Luật không thay đổi về nội dung, chỉ là thay đổi tên gọi nhưng sẽ dẫn tới phải thay đổi một số giấy tờ (ví dụ: Giấy chứng minh Kiểm sát viên…). Từ đó, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo lý giải, làm rõ sự cần thiết sửa đổi tên gọi của các ngạch Kiểm sát viên.