1. Quy định của pháp luật về điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù
Theo quy định tại khoản 1 Điều 67 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
- Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
- Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
- Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
- Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.
Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Như vậy, theo quy định của điều luật, hoãn chấp hành hình phạt tù có thể hiểu là việc người bị kết án phạt tù đang tại ngoại được Tòa án có thẩm quyền cho phép tạm dừng một khoảng thời gian đi chấp hành hình phạt tù do có những điều kiện nhất định. Việc người phạm tội được hoãn chấp hành hình phạt tù là một quy định thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Ảnh minh họa.
Thủ tục đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù, hồ sơ đề nghị và thủ tục xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 24 Luật Thi hành án hình sự và các Điều 5, 6, 7 Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 12/8/2021 quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục hoãn, miễn chấp hành hình phạt tù.
Nhìn chung, pháp luật đã quy định tương đối đầy đủ về điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù. Đây là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho hoãn chấp hành hình phạt tù đối với từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, thực tiễn đã phát sinh những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, không chỉ gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong việc xem xét, quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù mà còn có thể ảnh hưởng đến quyền của người bị kết án và công tác thi hành án hình sự trong một số trường hợp nhất định.
2. Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng quy định hoãn chấp hành hình phạt tù
Một là, pháp luật hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về các điều kiện hoãn chấp hành án phạt tù được quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành, đặc biệt là hướng dẫn về căn cứ xác định tình trạng bệnh của người bị xử phạt tù thuộc trường hợp “bị bệnh nặng”.
Tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 01/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 12/8/2021 của TAND Tối cao, VKSND Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục hoãn, miễn chấp hành án phạt tù (TTLT 01/2021) như sau: “Đối với người bị kết án phạt tù bị bệnh nặng tới mức không thể chấp hành hình phạt tù và nếu phải chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ phải có kết luận của Hội đồng giám định y khoa hoặc bản sao bệnh án, kết luận của bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên hoặc có kết luận của tổ chức pháp y công lập về tình trạng bệnh tật của người bị kết án phạt tù. Người bị bệnh nặng là người mắc một trong các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư giai đoạn cuối, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên hoặc mắc bệnh khác dẫn đến không có khả năng tự phục vụ bản thân, tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao. Đối với người bị kết án phạt tù bị nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV thì phải có kết quả xét nghiệm bị nhiễm HIV theo quy định của Bộ Y tế và bản sao bệnh án hoặc kết luận của cơ quan y tế có thẩm quyền khẳng định đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV, đang có nhiễm trùng cơ hội và tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao”.
Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về các loại bệnh khác hoặc tiêu chí cụ thể để xác định người bị bệnh gì, đến mức nào thì được coi là bệnh nặng không thể đi chấp hành hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ. Điều này dễ dẫn đến việc tùy tiện trong việc xét hoãn chấp hành hình phạt tù vì lý do “bệnh nặng”, đồng thời còn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến quyền của người bị kết án phạt tù bị bệnh nặng. Bởi lẽ, y học đã chứng minh con người có thể mắc nhiều căn bệnh khác nhau, với nhiều mức độ khác nhau; sự ảnh hưởng của các căn bệnh đến sức khỏe của mỗi người là khác nhau.
Đối với trường hợp hoãn chấp hành hành hình phạt tù vì lý do sức khỏe thì người bị xử phạt tù bị bệnh nặng được hoãn chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều lần cho đến khi sức khỏe hồi phục nhưng lại không có văn bản hướng dẫn như thế nào là “sức khỏe được hồi phục”. Cơ quan nào kết luận đánh giá? Trên thực tế xảy ra trường hợp là người chấp hành án chết, hoặc sức khỏe hồi phục sau đó trốn khỏi địa phương hoặc người chấp hành án mặc dù sức khỏe đã được hồi phục nhưng cố tình chây ỳ không đi chấp hành án, làm cho bản án của Tòa án không được tôn trọng và thực thi.
Tại điểm i khoản 4 Thông tư liên tịch số 01/2021 quy định: "…Trường hợp hoãn chấp hành án phạt tù theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 67 của BLHS thì cuối quyết định ghi “Quyết định thi hành án số ... của Tòa án ... được thi hành kể từ ngày hết thời hạn hoãn chấp hành án phạt tù hoặc ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nhận được văn bản của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp quân khu trở lên hoặc kết luận của tổ chức pháp y công lập hoặc kết luận của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh trở lên về tình trạng sức khỏe của người được hoãn chấp hành án phạt tù phục hồi".
Nội dung hướng dẫn này cũng không xác định cụ thể căn cứ xác định thế nào là “sức khỏe được hồi phục”. Trách nhiệm xác định tình trạng sức khỏe được hồi phục vẫn thuộc về bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp quân khu trở lên hoặc kết luận của tổ chức pháp y công lập hoặc kết luận của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh trở lên. Tuy nhiên, luật lại không quy định cụ thể khi nào những chủ thể này thực hiện việc lập văn bản để xác nhận tình trạng “sức khỏe được hồi phục” đối với người bị xử phạt tù được hoãn thi hành án phạt tù. Đối với các trường hợp được hoãn do bị bệnh nặng, nhưng chưa có quy định về việc kiểm tra sức khỏe của người được hoãn trong thời gian hoãn để xác định tình trạng sức khỏe họ đã hồi phục như thế nào? Không có quy định cơ quan, tổ chức nào có trách nhiệm hoặc thẩm quyền yêu cầu người được hoãn đi kiểm tra sức khỏe và xác định họ đã hồi phục sức khoẻ để tiếp tục đưa đi chấp hành án. Bên cạnh đó, hiện nay không còn tổ chức Công an cấp huyện nên trong thời gian tới cần có hướng dẫn áp dụng thống nhất tránh tình trạng kéo dài thời gian thi hành bản án hình sự của Tòa án.
Hai là, việc hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị xử phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Tại điểm b khoản 1 Điều 67 BLHS năm 2015 quy định: Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi. Tuy nhiên, điều luật không quy định cụ thể việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi là con đẻ hay con nuôi và không giới hạn áp dụng đối với con thứ mấy kể từ khi họ bị xử phạt tù. Điều này làm cho đối tượng phạm tội lợi dụng quy định này mang thai liên tục để trốn tránh việc đi chấp hành án trong một thời gian dài. Đây là một bất cập trong thực tế cần sớm được khắc phục.
Ba là, việc hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội là lao động duy nhất trong gia đình.
Điểm c khoản 1 Điều 67 BLHS năm 2015 quy định việc hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội là lao động duy nhất trong gia đình mà nếu người này phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điểm h khoản 1 Điều 6 TTLT số 01/2021 quy định: Đối với người bị kết án phạt tù được đề nghị hoãn chấp hành án phạt tù vì lý do là lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành án phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt thì phải có bản tường trình ghi rõ hoàn cảnh khó khăn, công việc, mức thu nhập, nơi làm việc và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người có yêu cầu xin hoãn chấp hành hình phạt tù có thẩm quyền xác nhận người đó là lao động duy nhất trong gia đình và nếu họ phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể thế nào là gia đình khó khăn đặc biệt. Nội dung hướng dẫn trên chỉ ghi nhận trong bản tường trình về hoàn cảnh khó khăn, công việc, mức thu nhập. Điều này dẫn đến việc không thống nhất khi áp dụng tại các địa phương.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Từ những phân tích trên, tác giả xin đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật, tạo sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về các điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS bao gồm: Quy định, tiêu chí xác định mức độ bệnh nặng; căn cứ xác định tình trạng “sức khỏe được phục hồi”, thẩm quyền ban hành văn bản xác định tình trạng sức khỏe được phục hồi; Phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi là con đẻ hay con nuôi; Tiêu chí, căn cứ xác định thế nào là “gia đình gặp khó khăn đặc biệt”.
Thứ hai, các nhà làm luật cần bổ sung quy định xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi chỉ cho phép hoãn 01 lần để tránh thời hạn tạm hoãn kéo dài, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật.
NGUYỄN THỊ YẾN HOA
Tòa án Quân sự Quân khu 1