Quy định về người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại
Căn cứ Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự được quy định như sau:
“Điều 84. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người được bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện;
c) Bào chữa viên nhân dân;
d) Trợ giúp viên pháp lý.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có quyền:
a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
c) Yêu cầu giám định, định giá tài sản;
d) Có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ; đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra;
đ) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa;
e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
g) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
h) Kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có nghĩa vụ:
a) Sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án;
b) Giúp bị hại, đương sự về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Theo Điều 84, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền tham gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Điều này bao gồm việc đưa ra ý kiến, yêu cầu, phản đối các quyết định, hành vi tố tụng có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của bị hại.
Ngoài ra, Điều 84 cũng quy định nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, bao gồm việc thực hiện các nhiệm vụ theo yêu cầu của cơ quan tố tụng và tuân thủ các quy định pháp luật liên quan trong quá trình tham gia tố tụng.
Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 331 BLTTHS còn quy định quyền kháng cáo của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Theo đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. Việc các nhà làm luật quy định quyền này đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của những chủ thể đặc biệt này trong vụ án hình sự.
Khoản 3 Điều 9 Thông tư 02/2018/TT-TANDTC quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên do Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao ban hành. Theo đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người dưới 18 tuổi có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và những văn bản hướng dẫn khác, với những tiến bộ đáng kể, đã quy định chi tiết và cụ thể về "người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại". Những quy định này không chỉ làm rõ vị trí, vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong quá trình tố tụng, mà còn tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, góp phần nâng cao tính công bằng và minh bạch trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Khó khăn, vướng mắc
Bên cạnh đó, việc áp dụng chế định về người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại của BLTTHS trong thực tế vẫn có một số khó khăn, vướng mắc mà các cơ quan tư pháp trung ương chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn khó khăn, thiếu thống nhất. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về giao, gửi bản án, theo khoản 1 Điều 262 BLTTHS quy định về giao, gửi bản án thì Tòa án cấp sơ thẩm chỉ phải giao bản án cho bị cáo, bị hại, Viện Kiểm sát cùng cấp, người bào chữa và gửi bản án cho bị cáo bị xét xử vắng mặt quy định tại điểm c khoản 2 Điều 290, Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp, Cơ quan điều tra cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Trại tạm giam, Trại giam nơi đang giam giữ bị cáo.
Tại quy định này không có quy định về việc giao, gửi bản án cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Tuy nhiên, tại khoản 5 Điều 331 BLTTHS nêu rõ: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.”. Có nghĩa, cũng giống như người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự chỉ được quyền kháng cáo khi họ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, còn nếu bị hại, đương sự không thuộc một trong hai trường hợp trên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự không có quyền kháng cáo.
Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 262 BLTTHS lại không quy định về việc giao hoặc gửi bản án cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong khi đó người bào chữa lại được Tòa án giao bản án, việc này có thể sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất trong việc kháng cáo bản án sơ thẩm.
Thứ hai, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định cụ thể về thủ tục đăng ký tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, gây ra sự không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Mặc dù các thủ tục đăng ký bào chữa và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thông báo cho người bào chữa tại các Điều 78 và Điều 79 BLTTHS. Việc này là để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, nhưng trong BLTTHS lại không có quy định tương tự dành cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, dù vai trò của người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là như nhau. Điều này tạo ra khoảng trống pháp lý cần được khắc phục nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong tố tụng.
Thứ ba, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có quy định cụ thể về thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự được tham gia tố tụng. Điều này chưa đáp ứng đầy đủ nguyên tắc: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự”, khiến việc xác định thời điểm luật sư, người đại diện, bào chữa viên nhân dân hay trợ giúp viên pháp lý tham gia vào quá trình tố tụng trở nên khó khăn.
Mặc dù, khoản 3 Điều 9 Thông tư 02/2018/TT-TANDTC đã có quy định về thời điểm tham gia tố tụng của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người dưới 18 tuổi, ngoài quy định này thì không có quy định nào khác về thời điểm tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong trường hợp bình thường. Hệ quả là sự mơ hồ này gây cản trở trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị hại và đương sự – những người đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Đồng thời, việc thiếu quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự sẽ gây ra nhiều bất lợi đối với người được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp vì bị hại, đương sự cũng là những người tham gia tố tụng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự.
Thứ tư, theo quy định tại Mục III của Bộ luật Tố tụng hình sự, quy định chung về thủ tục tại phiên tòa hiện chỉ quy định về sự có mặt của Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, Điều tra viên,… nhưng lại không có bất kỳ quy định nào về sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Cụ thể, khi những người được quy định tại Mục III của BLTTHS vắng mặt, Hội đồng xét xử có thể quyết định hoãn phiên tòa hoặc tiếp tục xét xử tùy từng trường hợp, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi không thể có mặt.
Tuy nhiên, quy định này lại chưa đề cập đến sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Điều này dẫn đến cách hiểu rằng nếu người bảo vệ vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn có thể tiếp tục phiên tòa vì không có căn cứ để hoãn. Việc thiếu quy định về sự có mặt của những người bảo vệ này, theo quan điểm của tác giả, là một thiếu sót lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, và có thể làm giảm chất lượng cũng như tính công bằng của quá trình xét xử.
Kiến nghị, đề xuất
Thứ nhất, để đảm bảo quyền kháng cáo của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, theo quan điểm của tác giả Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại. Do đó, tác giả đề xuất bổ sung khoản 1 Điều 262 BLTTHS như sau:
“1. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, bị hại, Viện Kiểm sát cùng cấp, người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại;…”
Thứ hai, để xác định rõ thời điểm tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, đề xuất nên bổ sung thêm quy định vào Điều 84 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cụ thể, có thể bổ sung nội dung như sau: “Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tham gia tố tụng khi đơn đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận.”.
Việc bổ sung này sẽ giúp làm rõ thời điểm mà người bảo vệ có thể tham gia tố tụng, góp phần bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan, đồng thời khắc phục những bất cập và tạo sự thống nhất.
Thứ ba, về thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, có thể áp dụng thủ tục tương tự như thủ tục đăng ký bào chữa dành cho người bào chữa để đảm bảo sự công bằng giữa người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong quá trình tham gia vụ án. Do vậy, tác giả đề xuất cần bổ sung thêm quy định mới trong Điều 84 của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tương tự như thủ tục đăng ký người bào chữa. Việc bổ sung quy định này sẽ tạo sự thống nhất, minh bạch trong quy trình tố tụng, giúp đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, đồng thời tránh sự khác biệt không cần thiết trong quá trình thực hiện các thủ tục đăng ký tham gia tố tụng.
Thứ tư, bổ sung thêm quy định về sự có mặt, vắng mặt của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tại phiên tòa, quy định rõ trường hợp nào hoãn phiên tòa, trường hợp nào HĐXX tiếp tục xét xử.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy vai trò và trách nhiệm của người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong vụ án hình sự là tương đương nhau. Vì vậy, tác giả đề xuất bổ sung thêm quy định tại Mục III BLTTHS về sự có mặt của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tương tự như quy định về sự có mặt của người bào chữa tại Điều 291 BLTTHS, cụ thể như sau: “Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự phải có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể gửi trước bản bảo vệ cho Tòa án. Trường hợp người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị hại, đương sự đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử".