/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Quy định về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: Cần sửa đổi, bổ sung cho sát thực

Quy định về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: Cần sửa đổi, bổ sung cho sát thực

13/08/2024 06:07 |

(LSVN) - Nhằm góp ý vào Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, bài viết đi sâu phân tích các quy định có liên quan đến thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Điều 33 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Từ đó, chỉ ra các bất cập còn đang tồn tại của chế định trên và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện hơn pháp luật về trọng tài thương mại tại Việt Nam.

Ảnh minh họa.

Quy định chung về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền con người năm 1946 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 đã ghi nhận khởi kiện như một trong những quyền cơ bản nhất của con người. Trên tinh thần kế thừa quan điểm của luật pháp quốc tế, Việt Nam cũng đã quy định rõ quyền khởi kiện trong Hiến pháp năm 2013(1). Dù vậy, quyền này không được hiểu theo nghĩa tuyệt đối và nó phải được thực hiện trong một khoảng thời gian hạn định, đó được gọi là “thời hiệu khởi kiện”. Khác với Anh, Úc hay New Zealand, thời hiệu khởi kiện tại nước ta không được xây dựng thành một đạo luật riêng, mà thực tế chế định này phân bố rải rác trong từng lĩnh vực cụ thể(2), chẳng hạn như thời hiệu khởi kiện trong tranh chấp về lao động được quy định tại Bộ luật Lao động năm 2019, thời hiệu khởi kiện trong tố tụng hành chính được quy định tại Luật Tố tụng hành chính năm 2015, hay như thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự lại được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Mặc dù, cách tính thời hiệu khởi kiện có thể khác nhau theo từng văn bản luật, tuy vậy, theo nguyên tắc chung thì thời hiệu khởi kiện lúc nào cũng được xác định là thời hạn mà bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm được phép yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Do đó, khi thời hiệu khởi kiện kết thúc, chủ thể khởi kiện sẽ mất quyền yêu cầu bảo vệ này. Thời hiệu khởi kiện được xác định là một điều khoản luật định, nên các bên liên quan không thể thỏa thuận trước thời hiệu này. Những sự thống nhất về thời hiệu khởi kiện đều sẽ được xem là trái luật và không có hiệu lực áp dụng. Mặt khác, tương ứng với từng lĩnh vực cụ thể mà sẽ có cách tính thời hiệu khởi kiện khác nhau, do đó, khi quyết định áp dụng thời hiệu khởi kiện để giải quyết tranh chấp, cơ quan tài phán cần chú ý thật kỹ đến quan hệ pháp luật phát sinh giữa các bên liên quan để có thể viện dẫn thời hiệu khởi kiện một cách chính xác, tránh tình trạng nhầm lẫn, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể khởi kiện.

Đối với pháp luật trọng tài thương mại tại Việt Nam, lĩnh vực này đã ghi nhận từ sớm thời hiệu khởi kiện được áp dụng đối với các tranh chấp thuộc thẩm quyền của cơ quan trọng tài. Ngay từ Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, khoản 2 Điều 21 đã có quy định rằng “đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là 02 năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp”. Đến năm 2010, với sự ra đời của Luật Trọng tài thương mại thì nội dung này đã được ghi nhận lại tại Điều 33. Tuy nhiên, điều khoản hiện hành có nhiều điểm khác biệt so với cách thức xác định thời hiệu khởi kiện được quy định trong Pháp lệnh trước đó, “trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”. Hậu quả pháp lý sau khi kết thúc thời hiệu khởi kiện trọng tài cũng được thực hiện theo nguyên tắc chung. Theo đó, bên có quyền và lợi ích bị xâm phạm không thể yêu cầu hội đồng trọng tài hoặc trung tâm trọng tài thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của mình. Trên thực tế, việc trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài từ chối yêu cầu giải quyết tranh chấp do hết thời hiệu khởi kiện là không hiếm và điều này được thể hiện phần nào qua vụ tranh chấp giữa Công ty N (nguyên đơn) với Công ty K (bị đơn) về hợp đồng cho thuê đất và phụ lục được ký kết vào năm 2004. Theo phần trình bày của nguyên đơn, bên này đã thực hiện hợp đồng với tư cách là bên thuê đất của Công ty K, tuy nhiên sau khi ký kết hợp đồng, nguyên đơn mới phát hiện ra rằng “kết cấu hạ tầng chưa hoàn thiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh”. Nguyên đơn đã yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại cho mình và chấm dứt hợp đồng do có hành vi vi phạm nghĩa vụ. Sau nhiều lần yêu cầu nhưng bị đơn không thực hiện trách nhiệm của mình, nguyên đơn đã đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài. Sau khi tiếp nhận yêu cầu khởi kiện này, hội đồng trọng tài đã quyết định không thụ lý vụ tranh chấp trên với lý do yêu cầu của nguyên đơn đã hết thời hiệu khởi kiện. Trong phần trình bày của mình, hội đồng trọng tài đã chỉ ra rằng các thiệt hại mà nguyên đơn phải gánh chịu đều phát sinh trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2007. Tuy nhiên đến ngày 28/11/2011 nguyên đơn mới nộp đơn khởi kiện đến hội đồng trọng tài. Nếu tính từ ngày cuối cùng của năm 2007 đến ngày nộp đơn hiện tại thì đã quá thời hạn 02 năm được quy định trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Do đó, hội đồng trọng tài không thể chấp nhận và thụ lý vụ tranh chấp này(3).

Thấy rằng, quan hệ tố tụng trọng tài là một tập hợp con của quan hệ tố tụng dân sự. Do đó, trong trường hợp có sự kiện phát sinh nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 nhưng Luật này không có ghi nhận hoặc có ghi nhận nhưng không rõ ràng, ta có thể viện dẫn quy định của văn bản luật chung là Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết. Điều này cũng có thể được thấy rõ thông qua các quy định về thời hiệu khởi kiện trọng tài. Hiện nay Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chỉ quy định duy nhất các vấn đề xoay quanh cách thức tính thời hiệu khởi kiện tại Điều 33, chứ không nói gì đến những trường hợp không áp dụng thời hiệu này. Tuy nhiên, dựa trên nguyên tắc luật chung - luật riêng(4) thì khi áp dụng thời hiệu khởi kiện, trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài cũng phải đồng thời viện dẫn quy định tại Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xem xét loại trừ không áp dụng thời hiệu trên trong một số tình huống cụ thể. Các căn cứ được nhắc đến bao gồm: yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản; yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai và các trường hợp khác do pháp luật quy định. Việc áp dụng như trên đã được minh họa một cách sinh động thông qua vụ khởi kiện giữa Công ty A (nguyên đơn) với Công ty B (bị đơn) về hợp đồng dịch vụ pháp lý. Căn cứ nội dung hợp đồng thì Công ty B có trách nhiệm bảo đảm vụ kiện mà Công ty A giao sẽ được thực hiện thành công, ngược lại Công ty A có nghĩa vụ thanh toán tiền dịch vụ cho Công ty B. Theo hợp đồng, Công ty A đã đặt cọc số tiền bằng 80% phí dịch vụ cho Công ty B. Sau khi nhận được kết quả khởi kiện không thành, Công ty A đã yêu cầu hoàn trả khoản tiền đặt cọc này nhưng bị Công ty B từ chối, vụ kiện được đưa ra giải quyết tại hội đồng trọng tài. Theo lý giải của hội đồng trọng tài thì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã vượt quá thời hiệu khởi kiện được ghi nhận tại Điều 33 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, yêu cầu này thực chất là nhằm mục đích bảo vệ quyền sở hữu, bởi vì việc nguyên đơn đã đặt cọc có nghĩa là quyền sở hữu số tiền trên vẫn thuộc về bên này, hành động khởi kiện chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền sở hữu của nguyên đơn trước hành vi chiếm hữu tài sản bất hợp pháp của bên kia. Yêu cầu này thuộc vào căn cứ không áp dụng thời hiệu khởi kiện tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, hội đồng trọng tài đã quyết định chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn mặc dù đã quá thời hiệu khởi kiện được quy định trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010(5).

Cần lưu ý rằng không phải bất kỳ quy định về tố tụng nào trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng được viện dẫn cho quan hệ tố tụng trọng tài. Mà ta phải chú ý phạm vi áp dụng được minh thị cụ thể thông qua từng điều luật. Chẳng hạn, đối với quan hệ tố tụng dân sự tại Tòa án, thời hiệu khởi kiện chỉ được áp dụng khi có yêu cầu từ một bên hoặc các bên liên quan với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Điều này dẫn đến việc mặc dù theo quy định của pháp luật thì thời hiệu khởi kiện đã qua nhưng Tòa án lại vẫn có thể thụ lý và giải quyết bình thường nếu không có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện(6). Tuy nhiên, nguyên tắc trên chỉ được đặt ra đối với quan hệ tố tụng dân sự phát sinh tại Tòa án, bởi lẽ giới hạn này đã được ghi nhận cụ thể tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều này có nghĩa là trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài trong mọi trường hợp đều phải xem xét đến thời hiệu khởi kiện trước khi quyết định thụ lý vụ tranh chấp, chứ không mặc nhiên thụ lý khi không nhận được yêu cầu về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện.

Một số kiến nghị

Điều chỉnh lại cách tính thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Thời hiệu khởi kiện tại Điều 33 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được xây dựng dựa trên tinh thần của Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó, thời hiệu khởi kiện được quy định là một khoảng thời gian tương đương 02 năm và thời điểm bắt đầu tính thời hiệu này sẽ được thực hiện kể từ ngày mà quyền và lợi ích hợp pháp của một bên có dấu hiệu bị xâm phạm. Việc ghi nhận cách tính thời hiệu tương tự như trên giúp bảo đảm nguyên tắc thống nhất quy định trong hệ thống pháp luật, từ đó tạo nhiều thuận lợi cho công tác áp dụng quy định trên thực tế(7). Tuy nhiên, qua quá trình sửa đổi, bổ sung pháp luật về dân sự đã có sự thay đổi đáng kể, đặc biệt là đối với cách thức tính toán thời hiệu khởi kiện. Cụ thể, Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận lại “thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Như vậy, độ dài của thời hiệu khởi kiện đã được kéo dài thành 03 năm. Còn đối với cách tính thời hiệu khởi kiện, pháp luật dân sự hiện hành không còn ghi nhận thời hiệu sẽ bắt đầu tại thời điểm quyền và lợi ích bị xâm phạm mà thay vào đó sẽ được tính kể từ thời điểm “người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Người viết cho rằng, trong bối cảnh pháp luật chung về dân sự đã có sự thay đổi trong tư duy lập pháp thì cũng cần sửa đổi lại quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 trong vấn đề xác định thời hiệu khởi kiện.

Việc sửa đổi ngoài giúp tạo nền tảng cho sự thống nhất quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, còn giúp pháp luật nước ta hiện đại hơn, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh xảy ra tranh chấp trên thực tế. Có thể thấy, đối với các vụ tranh chấp trong lĩnh vực tư, đặc biệt là các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, nghĩa vụ chứng minh về việc quyền và lợi ích bị xâm phạm chủ yếu sẽ thuộc về bên có yêu cầu khởi kiện(8). Tuy nhiên, không phải lúc nào việc thu thập chứng cứ cũng diễn ra một cách đơn giản, có nhiều trường hợp do tình tiết phức tạp của vụ tranh chấp mà bên khởi kiện phải áp dụng nhiều biện pháp cũng như tốn nhiều thời gian mới bảo đảm yêu cầu của mình được chấp nhận một cách chắc chắn bởi cơ quan tài phán. Tình trạng này được cho là diễn ra một cách thường xuyên hơn trong bối cảnh kinh tế thị trường, nơi mà các mối quan hệ kinh tế phát triển nhanh chóng và không ngừng thay đổi. Do đó, để giúp bên yêu cầu có đủ thời gian chứng minh việc họ đã bị xâm phạm về quyền và lợi ích, pháp luật dân sự đã sửa đổi thời hiệu khởi kiện từ 02 năm thành 03 năm. Điều này được xem là phù hợp, nó giúp bảo đảm hơn tinh thần bảo vệ bên bị vi phạm trong tư duy pháp luật hiện đại. Quan điểm trên cũng được chấp nhận tại nhiều nước phát triển ngày nay. Chẳng hạn như Điều 195 Bộ luật Dân sự Đức có quy định rằng thời hiệu khởi kiện tiêu chuẩn cho việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự là 03 năm, tương tự Điều 188 Bộ luật Dân sự của Trung Quốc cũng có ghi nhận “thời hiệu khởi kiện đối với cá nhân trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền dân sự là 03 năm”. Với vai trò là một văn bản luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động tố tụng trong thương mại, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 nên kế thừa nguyên tắc được đề cập càng sớm càng tốt nhằm bảo đảm quyền khởi kiện cho chủ thể bị xâm phạm một cách xác đáng và thống nhất quy định trong pháp luật về dân sự, cũng như giúp luật pháp nước ta tiệm cận hơn với tinh thần luật pháp quốc tế.

Ngoài ra, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng nên ghi nhận thời điểm tính toán thời hiệu khởi kiện giống như Bộ luật Dân sự năm 2015. Thay vì quy định như hiện tại, nên đổi thành thời hiệu khởi kiện sẽ được tính kể từ ngày bên có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Bởi việc đặt ra thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực dân sự nói chung, trong hoạt động tố tụng trọng tài nói riêng là nhằm mục đích buộc bên bị xâm phạm quyền và lợi ích phải tranh thủ trong việc thực hiện quyền khởi kiện của mình. Điều này giúp hạn chế tình trạng tranh chấp kéo dài gây tổn hại đến lợi ích của các bên liên quan, cũng như giảm bớt các khó khăn cho cơ quan tài phán trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ(9).

Quy định thêm thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp và căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong tố tụng trọng tài

Theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự sẽ không bao gồm khoảng thời gian xảy ra một trong những sự kiện sau: (i) sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể khởi kiện không thể đưa ra yêu cầu của mình trong phạm vi thời hiệu; (ii) chủ thể khởi kiện là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng chưa có người đại diện; và (iii) chủ thể khởi kiện là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện thay thế khi người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân hoặc người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được. Việc pháp luật dân sự đặt ra nguyên tắc trên là nhằm bảo đảm quyền lợi cho chủ thể khởi kiện khi việc thực hiện chậm trễ nghĩa vụ của họ được cho là bị tác động bởi các yếu tố khách quan. Bên cạnh các trường hợp này, Điều 157 Bộ luật Dân sự còn ghi nhận thêm ba tình huống mà ở đó thời hiệu khởi kiện sẽ được bắt đầu lại, bao gồm: bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với chủ thể khởi kiện; bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với chủ thể khởi kiện; các bên đã tự hòa giải được với nhau.

Trên thực tế, trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài thường có xu hướng viện dẫn quy định tại Điều 156 và 157 Bộ luật Dân sự năm 2015 để nhằm loại trừ thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện hoặc để bắt đầu lại việc tính toán thời hiệu khởi kiện cho nguyên đơn. Đối với trường hợp thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, ta có thể nhận thấy rõ cách áp dụng quy định này thông qua vụ kiện giữa nguyên đơn Công ty vận tải X với bị đơn Công ty bảo hiểm Y về hợp đồng bảo hiểm tàu biển. Theo như lý giải của nguyên đơn thì tại văn thư ngày 03/01/2017 bên này đã thực hiện báo cáo cho bị đơn biết về việc tàu biển của mình đã gặp tai nạn. Sau khi bị đơn nhận được thông báo, họ đã yêu cầu nguyên đơn bổ sung hồ sơ và chờ kết quả giám định. Đến ngày 13/2/2020 thì bị đơn thông báo không bồi thường bảo hiểm do tổn thất không thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Không đồng ý với kết luận trên, nguyên đơn đã đem vụ tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài. Hội đồng trọng tài nhận định rằng mặc dù tính từ thời điểm năm 2017 đến ngày nhận được đơn yêu cầu từ nguyên đơn thì đã quá thời hiệu khởi kiện trọng tài. Tuy nhiên, việc chậm trễ trong quá trình yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích của bên này bị gây ra chủ yếu là do yêu cầu chờ đợi từ phía bị đơn và đây được xem là một trở ngại khách quan đối với việc thực hiện quyền khởi kiện của bên đó. Hội đồng trọng tài đã viện dẫn khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 để loại trừ khoảng thời gian từ ngày 03/01/2017 đến ngày 13/02/2020 không tính vào thời hiệu khởi kiện.

Về phần bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, nội dung này được minh thị rõ nét thông qua vụ tranh chấp giữa nguyên đơn người mua A và bị đơn người bán B về hợp đồng mua bán chè. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, nguyên đơn đã ứng trước một khoản tiền cho bị đơn, nhưng do chất lượng chè không bảo đảm nên hai bên đã ký thỏa thuận ngày 20/8/2013 ghi nhận rằng bị đơn phải trả lại số tiền cả gốc lẫn lãi mà nguyên đơn đã ứng cho họ. Văn bản xác nhận việc bị đơn còn nợ nguyên đơn với số tiền 04 tỉ đồng được lập vào ngày 15/12/2014, nhưng mãi cho đến ngày 05/01/2017 mà bị đơn vẫn không có động thái trả nợ, nên nguyên đơn đã khởi kiện ra trọng tài. Sau khi bị kiện, bị đơn xác nhận rằng họ không phủ nhận khoản tiền còn nợ nguyên đơn mà chỉ đề nghị nguyên đơn xem xét lại việc miễn hoặc giảm yêu cầu đòi tiền lãi do chậm thanh toán. Trong tình huống này, hội đồng trọng tài cho rằng việc nộp đơn của nguyên đơn đã vượt quá thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 33 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, sau khi bị kiện bị đơn đã thừa nhận việc mình còn nợ số tiền 04 tỉ đồng, do đó đây được xem là căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện tại điểm a khoản 1 Điều 157 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hội đồng trọng tài đã quyết định thời hiệu khởi kiện sẽ được bắt đầu lại với thời hạn 02 năm kể từ ngày tiếp theo ngày bị đơn thừa nhận còn nợ nguyên đơn. Việc trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài sử dụng quy định Điều 156 và 157 Bộ luật Dân sự năm 2015 trong việc tính toán thời hiệu khởi kiện sẽ giúp họ giải quyết được các vấn đề phát sinh mà Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chưa có quy định. Tuy nhiên, việc viện dẫn như trên là không phù hợp, không đúng về mặt khoa học pháp lý. Bởi lẽ, Điều 156 và 157 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ được áp dụng duy nhất đối với “vụ án dân sự”. Điều này có nghĩa là quy định trên chỉ có thể được sử dụng bởi Tòa án chứ không phải trọng tài thương mại, do vụ án dân sự được hiểu là “các tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự”(10). Đây là một thuật ngữ được dùng riêng cho hoạt động tố tụng dân sự thuộc phạm vi xử lý của Tòa án, nó khác hoàn toàn với những tranh chấp thương mại được trọng tài thụ lý giải quyết. Thuật ngữ “vụ án dân sự” không được ghi nhận trong bất cứ điều khoản nào của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Người viết cho rằng, sai lầm trên trong thực tiễn áp dụng quy định của cơ quan trọng tài cũng cho thấy phần nào sự thiếu toàn diện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam, do nếu áp dụng đúng theo quy định trong văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì rõ ràng cơ quan trọng tài không thể đưa ra cách thức giải quyết cho hai vấn đề được đề cập. Và việc này vô hình trung đang làm giảm tính hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành(11). Để khắc phục mặt hạn chế trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 nên lượt bỏ cụm từ “vụ án dân sự” tại Điều 156 và 157 để mở rộng hơn phạm vi áp dụng đối với hai điều khoản được nhắc đến. Điều này vừa giúp việc viện dẫn thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện hay các căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện từ Bộ luật Dân sự năm 2015 của cơ quan trọng tài trở nên phù hợp về mặt lý luận cũng như lắp đầy những khiếm khuyết đang tồn tại trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

Kết luận

Bằng việc phân tích quy định pháp luật tố tụng dân sự và tố tụng trọng tài ở Việt Nam, cũng như thực tiễn áp dụng quy định của cơ quan trọng tài về thời hiệu khởi kiện, bài viết đã cho thấy được những bất cập hiện vẫn chưa được xem xét khắc phục trong luật pháp nước ta. Song song với đó, một số giải pháp hữu ích cũng đã được trình bày nhằm gợi mở các hướng giải quyết đối với những mặt hạn chế vừa nêu. Mong rằng, với các giá trị mà bài viết này mang lại có thể đóng góp phần nào vào việc hoàn thiện hơn quy định của pháp luật trọng tài hiện nay. Nhờ đó, thu hút hơn việc sử dụng cơ chế này tại nước ta, hỗ trợ giảm tải gánh nặng cho Tòa án.

 (1)Đoàn Thị Ngọc Hải, Quyền khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự, https://moj.gov.vn/UserControls/News/pFormPrint. aspx?UrlListProcess=/qt/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi&ListId=75a8df79-a725-4fd5-9592-517f443c27b6&SiteId=b11f9e79-  d495-439f-98e6-4bd81e36adc9&ItemID=2431&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3.

(2)Nguyễn Thị Minh Phượng, Thời hiệu khởi kiện và thực tiễn áp dụng pháp luật đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo yêu cầu áp dụng thời hiệu, https://tapchitoaan.vn/thoi-hieu-khoi-kien-va-thuc-tien-ap-dung-phap-luat-dinh-chi-giai-quyet-vu-an-dan-su-theo- yeu-cau-ap-dung-thoi-hieu.

(3)Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, Thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp tại trọng tài, https://diendandoanhnghiep.vn/ thoi-hieu-khoi-kien-giai-quyet-tranh-chap-tai-trong-tai-165917.html

(4)Nguyễn Văn Hiển, Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong trường hợp các văn bản do cùng một chủ thể ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, 2020, tr. 27.

(5)Ngô Khắc Lễ, Tranh chấp về thời hiệu khởi kiện, https://www.viac.vn/goc-nhin-trong-tai-vien/tranh-chap-ve-thoi-hieu-khoi- kien-a992.html

(6)ANT Consultants and Lawyers, Thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài, https://www.antlawyers.com/cong-ty-luat-giai- quyet-tranh-chap/thoi-hieu-khoi-kien-theo-thu-tuc-trong-tai/.

(7)Phí Thị Thanh Tuyền, Bảo đảm tính thống nhất giữa các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, https:// tapchicongthuong.vn/bai-viet/bao-dam-tinh-thong-nhat-giua-cac-quy-pham-phap-luat-trong-he-thong-phap-luat-viet-nam-  hien-nay-53811.htm.

(8)Phan Trung Hiền, Giáo trình Luật tố tụng dân sự (Quyển I: Những vấn đề lý luận chung), NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 296-297.

(9)Trịnh Duy Tám, Xác định thời hiệu khởi kiện trong pháp luật dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15, 2013, tr. 31.

(10)    Đàm Thị Hoa, Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2016, tr.10.

(11)    Trần Ngọc Đường, Phát huy vai trò của pháp luật trong góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/47975/phat-huy-vai-tro-cua-phap-luat-trong-gop-phan- phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-nuoc-ta.aspx, ngày 26/12/2023.

NGUYỄN MINH PHÚ 

Viện Kinh tế - Xã hội TP. Cần Thơ

'Bình đẳng' trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý: Nội dung và ý nghĩa

Nguyễn Hoàng Lâm