/ Trao đổi - Ý kiến
/ Quy trình tố tụng đối với tội phạm có chức vụ

Quy trình tố tụng đối với tội phạm có chức vụ

05/01/2021 18:09 |

(LSO) - Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Kể cả đối với những người được nhân dân tín nhiệm và bầu nhưng nếu vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự một cách nghiêm minh, kịp thời.

Ảnh minh họa.

Liên quan đến việc gần đây nhiều vụ án cán bộ bị khởi tố, vậy theo quy định của pháp luật, liệu quy trình khởi tố đối với các đối tượng này có gì khác biệt không?

​Theo Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, dưới góc độ pháp lý, bình đẳng trước pháp luật là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Hiến pháp và rất nhiều văn bản pháp luật có liên quan. Bình đẳng trước pháp luật được hiểu là mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng ngang nhau trước pháp luật, không phụ thuộc vào dân tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội,…

Tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật như sau: Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.

Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường
(Đoàn Luật sư TP. Hà Nội).

Như vậy, theo quy định pháp luật thì dù là cán bộ hay người dân thì đều phải chịu trách nhiệm ngang nhau trước pháp luật và đều áp dụng trình tự thủ tục chung theo quy định. Hiện nay, về trình tự, thủ tục bắt tạm giam bị can thì được quy định theo Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Cụ thể, việc bắt tạm giam bị can phải do những người có thẩm quyền ra lệnh, quyết định. Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bắt và các nội dung quy định: Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng; căn cứ ban hành văn bản tố tụng; nội dung của văn bản tố tụng; họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu.

Trước khi tiến hành bắt, người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người. Ngoài ra, không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.

Sau đó, Cơ quan điều tra sẽ tiến hành các hoạt động điều tra để làm rõ hành vi của các bị can. Sau khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 232 BLHS 2015 và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát. Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định: Truy tố bị can trước tòa án; trả hồ sơ để yêu cầu điều tra.

Luật sư Lê Cao Long, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh cũng cho rằng, quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền con người. Đó là quyền được xác lập tư cách con người trước pháp luật; không bị pháp luật phân biệt đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau. Như vậy, tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Kể cả đối với những người được nhân dân tín nhiệm và bầu nhưng nếu vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự một cách nghiêm minh, kịp thời.

Việc khởi tố vụ án hình sự dựa trên 6 căn cứ được quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Điều 143. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự thú.”

Mặt khác, Cơ quan điều tra chỉ được khởi tố vụ án hình sự đối với các tội phạm quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 khi có yêu cầu của bị hại.

Việc xử lý Đảng viên vi phạm pháp luật hình sự quy định tại khoản 5 Điều 2 Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương: “Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không "xử lý nội bộ"; bị tòa án tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam giữ trở lên thì phải khai trừ; nếu bị xử phạt bằng hình phạt thấp hơn cải tạo không giam giữ hoặc được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt hành chính thì tùy nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, nguyên nhân vi phạm và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà xem xét, thi hành kỷ luật đảng một cách thích hợp".

Luật sư Lê Cao Long, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh.

Như vậy, ngoài việc phải chịu các hình phạt theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Đảng viên bị truy cứu trách nhiệm hình sự có thể phải bị áp dụng các hình thức kỷ luật Đảng như khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ.

Đối với Đại biểu Quốc hội, Điều 81 Hiến pháp 2013 quy định: "Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội".

Bên cạnh đó, Điều 37 Luật Tổ chức Quốc hội 2014 cũng quy định: "Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc đề nghị bắt, giam, giữ, khởi tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao...”.

Như vậy, việc khởi tố đại biểu Quốc hội phải có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và được sự đồng ý của Quốc hội hoặc sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội (trong thời gian Quốc hội không họp). Qua đó thấy rằng, đại biểu Quốc hội không có quyền miễn trừ trong tố tụng.

Với những phân tích trên đã thể hiện quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân, không phân biệt đối xử kể cả với những người có chức vụ quyền hạn, được nhân dân tín nhiệm bầu ra. Qua đó, góp phần củng cố niềm tin vào sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, sự thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh cũng như uy tín của Đảng và ý nguyện của nhân dân.

THANH THANH

/vi-sao-ong-nguyen-duc-chung-bi-khoi-to-ve-toi-chiem-doat-tai-lieu-bi-mat-cua-nha-nuoc.html