Chị N.T.Thúy, trú tại Cẩm Lệ, Đà Nẵng hỏi:
Em của tôi trước đây làm việc trong một công ty đầu tư tài chính trên địa bàn TP. Đà Nẵng. Vừa qua, công ty này đã bị cơ quan công an khám xét khẩn cấp. Em tôi hiện đã bị tạm giữ để điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến hoạt động của công ty. Gia đình tôi đang muốn mời Luật sư nhưng không biết khi nào được mời và Luật sư sẽ bảo vệ quyền lợi của em tôi như thế nào trong vụ án hình sự này?
Luật sư Trương Đức Trung – Văn phòng Luật sư Phong & Partners trả lời:
Đối với vụ án hình sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan tố tụng mà còn là trách nhiệm của Luật sư. Với vai trò quan trọng trong hệ thống tư pháp, Luật sư không chỉ là người đồng hành của thân chủ mà còn là một nhân tố góp phần đảm bảo tính công bằng và minh bạch của quá trình tố tụng. Luật sư có quyền tham gia hoạt động tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Trong trường hợp người bị tạm giữ để điều tra, pháp luật quy định rõ:
Điều 59 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015) quy định về quyền của người bị tạm giữ:
2. Người bị tạm giữ có quyền:
c) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
Điều 74 BLTTHS 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng:
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Theo đó, người bị tạm giữ có quyền nhờ Luật sư bào chữa cho mình. Luật sư có thể tham gia vào vụ án hình sự ngay từ khi có quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt, tạm giữ người thì Luật sư tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp của em chị Thúy, chị Thúy có thể tiến hành mời Luật sư bào chữa ngay từ bây giờ, khi em của chị đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra tạm giữ. Ngoài ra, pháp luật hình sự còn quy định về trường hợp Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, theo đó:
Điều 57 BLTTHS 2015 quy định về Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
1. Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền:
e) Tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
Điều 7 Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định về Thời điểm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng.
1. Thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng kể từ khi có Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và có căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Có thể thấy, pháp luật luôn tạo điều kiện để người bị buộc tội được đảm bảo quyền bào chữa của mình, trong đó Luật sư đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ pháp lý cho người bị buộc tội, đảm bảo quá trình tố tụng diễn ra công bằng và minh bạch.
Quá trình tố tụng gồm giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Khi tham gia vào quá trình tố tụng, Luật sư sẽ tham gia với tên gọi là người bào chữa của người bị tạm giữ hoặc người bào chữa của người bị buộc tội. Đối với vai trò là người bào chữa, Luật sư được xác định là người giữ vị trí trọng yếu trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Các quyền của Luật sư bào chữa tham gia vụ án hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015 như sau.
- Thứ nhất, quyền tham gia vào quá trình điều tra, tố tụng của Luật sư được quy định tại các điểm:
a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;
b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;
d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;
đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
Nhóm quyền này cho phép Luật sư được tham gia vào một số hoạt động điều tra của cơ quan Công an, tạo điều kiện để Luật sư được tiếp cận, trao đổi nhiều hơn với người mà mình nhận bào chữa. Thông qua việc thực hiện các quyền này, Luật sư sẽ có thể theo dõi sát sao quá trình cơ quan chức năng thực hiện việc điều tra trong khi hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, hạn chế tối đa tình trạng ép cung. Đồng thời, trong trường hợp Luật sư được cho phép hỏi, Luật sư cũng có thể có cơ hội đặt những câu hỏi mang tính khai thác lợi ích để giúp người bị buộc tội có thêm phần lợi thế và góp phần giúp cho tình tiết vụ việc được sáng tỏ hơn.
- Thứ hai, quyền tiếp cận, thu thập và đánh giá chứng cứ của Luật sư được quy định tại các điểm:
h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;
l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;
Chứng cứ là một vấn đề quan trọng mang tính mấu chốt trong quá trình tố tụng hình sự. Chứng cứ là căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Việc Luật sư thực hiện quyền tiếp cận, thu thập và đánh giá chứng cứ chiếm vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Bằng chuyên môn và nghiệp vụ của mình, Luật sư sẽ có khả năng để xác định được nguồn chứng cứ có phù hợp không, có khách quan không và cần thiết phải tiến hành thu thập thêm những chứng cứ gì để có thể giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, tránh oan sai khi chứng cứ chỉ có lợi cho một phía.
- Thứ ba, quyền đề nghị, khiếu nại của Luật sư được quy định tại các điểm:
e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;
g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Trong quá trình tố tụng với nhiều giai đoạn phức tạp, việc thiếu sót trong quá trình này là không thể tránh khỏi. Pháp luật trao cho Luật sư quyền được đề nghị, khiếu nại giúp đảm bảo quá trình tố tụng được diễn ra một cách minh bạch và hợp pháp. Khi thực hiện những quyền này, Luật sư có thể can thiệp kịp thời khi phát hiện dấu hiệu sai phạm hay thiếu sót trong quá trình tố tụng, từ đó gia tăng cơ hội bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
- Thứ tư, quyền tham gia phiên tòa của Luật sư tại các điểm:
m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.
Luật sư bào chữa là “chỗ dựa tinh thần” cho thân chủ, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Tại phiên tòa, Luật sư có quyền xét hỏi, trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với kiểm sát viên về những nội dung tranh luận, đưa ra đề nghị của mình để bảo vệ đến cùng quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Bằng việc “phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng” (quy tắc 3 Bộ quy tắc Đạo đức, ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam), Luật sư sẽ nỗ lực hết mình để làm sáng tỏ sự thật vụ án và góp phần thực hiện nguyên tắc “xét xử đúng người, đúng tội, tránh oan sai cho người vô tội”.
Như vậy, trong bất kì giai đoạn nào của một vụ án hình sự, Luật sư đều có thể tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ. Tuy nhiên, sự tham gia đồng hành của Luật sư ngay từ giai đoạn đầu của quá trình tố tụng sẽ mang đến nhiều thuận lợi nhất định khi Luật sư có thể theo sát từ đầu vụ án và có những cơ hội tiếp xúc, làm rõ các tình huống pháp lý, từ đó có thêm cơ sở để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Luật sư Trương Đức Trung – Văn phòng Luật sư Phong & Partners
Pháp luật trao quyền cho Luật sư không chỉ giúp họ thực hiện chức năng, vai trò nghề nghiệp của họ đối với mỗi thân chủ, bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, mà còn góp phần kiểm soát và giám sát quá trình tố tụng, hạn chế sai sót và vi phạm có thể xảy ra từ phía các cơ quan điều tra và xét xử. Thông qua sự tham gia của Luật sư, các quy trình tố tụng hình sự trở nên khách quan, minh bạch và bảo vệ tối đa quyền con người. Đây chính là nền tảng cho một nền tư pháp tiến bộ, góp phần xây dựng niềm tin vững chắc vào hệ thống pháp luật và công lý của xã hội.
Trên đây là toàn bộ chia sẻ của Luật sư về quyền của Luật sư trong vụ án hình sự. Để đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của em mình, chị Thúy nên mời Luật sư ngay từ giai đoạn này.