1. Cơ sở pháp lý của quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa theo Hiến pháp và luật
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm” là một nguyên tắc hiến định, được ghi nhận tại khoản 7 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 [2]. Nguyên tắc này trước hết thể hiện ở việc bị can, bị cáo được tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa (khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013; điểm h khoản 2 Điều 60 và điểm g khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – BLTTHS 2015)
Khi bị can, bị cáo nhờ người bào chữa, giữa họ và người bào chữa phát sinh quyền và nghĩa vụ tố tụng đặc thù.
Theo BLTTHS 2015, người bào chữa có quyền gặp và hỏi bị can, bị cáo (điểm a khoản 1 Điều 73), đồng thời có quyền thu thập và đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu (điểm h khoản 1 Điều 73). Quyền này được cụ thể hóa thêm tại khoản 2 Điều 88 về thu thập chứng cứ, theo đó: để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án.
Quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa không phải là quyền tùy nghi của người bào chữa theo kiểu “có thể gặp hoặc không”, mà là quyền mang tính “công cụ thiết yếu” để người bào chữa thực hiện những nghĩa vụ cốt lõi của mình, gồm:
(i) Nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ các tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (điểm a khoản 2 Điều 73);
(ii) Nghĩa vụ giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ (điểm b khoản 2 Điều 73).
Từ các quy định trên, có thể thấy rằng quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa là bộ phận không thể tách rời của quyền bào chữa của bị can, bị cáo – một trong những quyền được Hiến pháp bảo đảm.
Đối với trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam
BLTTHS 2015 cũng đã quy định cụ thể về thủ tục để người bào chữa được gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Theo điểm b khoản 1 Điều 80, người bào chữa chỉ cần xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ Luật sư hoặc Thẻ Trợ giúp viên pháp lý hoặc Căn cước công dân. Đáng chú ý, Điều 80 không giao cho bất kỳ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào quy định chi tiết nội dung này, thể hiện chủ trương của nhà làm luật là bảo đảm thủ tục đơn giản, trực tiếp và không đặt thêm điều kiện ngoài luật đối với việc gặp bị can, bị cáo của người bào chữa.
Cần nói thêm rằng BLTTHS 2015 chỉ đặt ra một hạn chế duy nhất liên quan đến quyền nhờ người bào chữa của bị can, bị cáo trong các trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia. Khi đó, quyền nhờ người bào chữa chỉ phát sinh sau khi kết thúc điều tra (Điều 74). Tuy nhiên, đây là hạn chế đối với quyền nhờ người bào chữa của bị can, bị cáo, không phải đối với người bào chữa. Một khi đã kết thúc điều tra và bị can, bị cáo nhờ người bào chữa, thì việc gặp không bị đặt ra bất kỳ ngoại lệ nào, kể cả đối với nhóm tội danh xâm phạm an ninh quốc gia.
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 cũng không đặt ra thêm điều kiện nào làm thu hẹp quyền gặp của người bào chữa so với BLTTHS 2015. Luật chỉ bổ sung quy định về địa điểm gặp (khoản 3 Điều 22), đồng thời liệt kê một số trường hợp không cho gặp mang tính đặc thù và phải nêu rõ lý do (khoản 4 Điều 22), như trường hợp khẩn cấp, dịch bệnh, bảo đảm an toàn cơ sở giam giữ... Những trường hợp này có phạm vi hẹp và mang tính tình huống, không phải là căn cứ để mở rộng hạn chế hay “cấm đoán” tùy tiện đối với quyền gặp của người bào chữa.
Như vậy, ở cấp độ luật, quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa được quy định rõ ràng, thủ tục đơn giản, không bị đặt ra điều kiện hay hạn chế nào ngoài những trường hợp đặc thù và mang tính tình huống.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
2. Quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa trong văn bản dưới luật và thực trạng
Thông tư liên tịch 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC [3] (Thông tư liên tịch 01) tại Điều 10 quy định về phối hợp giải quyết cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp người bào chữa.
Khoản 4 Điều 10 đưa ra yêu cầu đối với trường hợp gặp người bị tạm giam tại nơi khám bệnh, chữa bệnh ngoài cơ sở giam giữ, việc gặp phải có sự đồng ý của bác sĩ điều trị. Đây là yêu cầu mang tính chuyên môn y khoa, xuất phát từ việc bảo đảm an toàn và tình trạng sức khỏe của người đang điều trị. Quy định này phù hợp với khoản 2 Điều 39 và khoản 2 Điều 45 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023, theo đó bác sĩ điều trị có quyền quyết định các vấn đề chuyên môn, bao gồm cả việc người bệnh có đủ điều kiện sức khỏe để tiếp xúc, gặp gỡ hay không.
Khoản 3 Điều 10 quy định rằng: “Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát”.
Quy định này dẫn đến thực tiễn quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa có thể bị hạn chế đáng kể, bởi lẽ khi có yêu cầu giám sát, cuộc gặp không còn được tổ chức theo thời gian do người bào chữa chủ động, mà phải chờ hai cơ quan – cơ quan đang thụ lý vụ án và cơ sở giam giữ – thống nhất về ngày, giờ và bố trí nhân sự giám sát. Điều này khiến việc gặp bị can, bị cáo của người bào chữa phụ thuộc hoàn toàn vào sự phối hợp giữa các cơ quan này.
Thêm vào đó, Thông tư liên tịch 01 lại không quy định thế nào là “trường hợp cần giám sát”, không đưa ra tiêu chí xác định, tình huống áp dụng hay quy định về hình thức văn bản. Từ đó phát sinh hàng loạt vấn đề chưa được pháp luật giải quyết:
- Cơ quan đang thụ lý vụ án gửi yêu cầu giám sát cho cơ sở giam giữ bằng hình thức gì, có phải là văn bản tố tụng hay không? Nếu không phải văn bản tố tụng thì việc hạn chế quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa lại dựa trên một văn bản hành chính hoặc trao đổi bằng lời nói.
- Người bào chữa có được biết về việc áp dụng giám sát hay không? Hiện không có quy định buộc cơ quan đang thụ lý vụ án hoặc cơ sở giam giữ phải thông báo.
- Không có thời hạn pháp lý để cơ quan đang thụ lý vụ án phải phối hợp tổ chức cuộc gặp. Điều này tạo ra khoảng trống khiến việc gặp thân chủ có thể bị trì hoãn tùy nghi, không thể kiểm soát.
Chính các khoảng trống này làm cho quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa – vốn được luật bảo đảm – dễ bị thu hẹp tùy theo cách hiểu và cách áp dụng của từng cơ quan đang thụ lý vụ án, cơ sở giam giữ.
Đáng lưu ý, ngoài Thông tư liên tịch nêu trên, quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa còn chịu sự điều chỉnh của Thông tư 46/2019/TT-BCA [4] (Thông tư 46), với một số điểm cần quan tâm:
Một là, Thông tư 46 không điều chỉnh quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa trong giai đoạn truy tố, xét xử.
Phạm vi điều chỉnh của Thông tư 46 giới hạn trong việc quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân khi thực hiện các quy định của BLTTHS 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bị can, chứ không bao gồm bị cáo (Điều 1). Đồng thời, Viện kiểm sát và Tòa án không thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư 46 (Điều 2).
Về mặt tố tụng, bị can và bị cáo chỉ là hai định danh pháp lý của người bị buộc tội ở những giai đoạn tố tụng khác nhau, cụ thể người bị buộc tội được gọi là bị can từ khi có quyết định khởi tố (khoản 1 Điều 60 BLTTHS 2015) cho đến thời điểm Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; sau thời điểm này, người bị buộc tội được gọi là bị cáo (khoản 1 Điều 61 BLTTHS 2015).
Như vậy, với phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng như đã phân tích, Thông tư 46 không điều chỉnh quyền gặp bị cáo của người bào chữa trong giai đoạn xét xử, đồng thời cũng không điều chỉnh quyền gặp bị can của người bào chữa trong giai đoạn truy tố, xét xử, bởi lẽ khi đó cơ quan đang thụ lý vụ án là Viện kiểm sát hoặc Tòa án, chứ không còn là cơ quan điều tra nữa. Điều này đồng nghĩa quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa trong giai đoạn truy tố, xét xử chỉ chịu sự điều chỉnh của Thông tư liên tịch 01.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy cách hiểu và áp dụng Thông tư 46 vẫn còn thiếu thống nhất. Một số cơ sở giam giữ, dù vụ án đã chuyển sang giai đoạn truy tố hoặc xét xử – cơ quan đang thụ lý lúc này đã là Viện kiểm sát hoặc Tòa án – vẫn yêu cầu người bào chữa thực hiện theo Thông tư 46, với hạn chế “nghiêm ngặt” hơn so với Thông tư liên tịch 01, như sẽ phân tích ngay sau đây.
Hai là, Thông tư 46 trao trách nhiệm cho “cơ quan đang quản lý bị can đang bị tạm giam” xem xét việc “cần thiết giám sát” cuộc gặp.
Đoạn thứ hai của khoản 1 Điều 12 Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định rằng: khi người bào chữa đề nghị gặp bị can đang bị tạm giam, cơ quan đang quản lý bị can đang bị tạm giam có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án để cơ quan này cử người phối hợp với cơ sở giam giữ giám sát cuộc gặp nếu xét thấy cần thiết.
So với Thông tư liên tịch 01, vốn chỉ quy định rằng: “Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát” (khoản 3 Điều 10) – nghĩa là thẩm quyền đánh giá “cần giám sát hay không” thuộc cơ quan đang thụ lý vụ án. Thông tư 46 lại trao thêm trách nhiệm cho “cơ quan đang quản lý bị can đang bị tạm giam” (thông thường chính là cơ sở giam giữ) phải xem xét trường hợp cuộc gặp “cần thiết giám sát”, rồi chủ động thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án để cử người phối hợp với cơ sở giam giữ giám sát. Cách thiết kế này mở rộng chủ thể có quyền đặt ra yêu cầu giám sát, khiến việc gặp bị can, bị cáo của người bào chữa bị hạn chế nhiều hơn so với Thông tư liên tịch 01.
Thêm vào đó, Thông tư 46 cũng không đưa ra bất kỳ tiêu chí, điều kiện hay tình huống nào làm căn cứ xác định thế nào là “cần thiết”, cũng không quy định hình thức, quy trình thông báo, phối hợp.
Như vậy, chính các quy định nêu trên cùng với cách hiểu và áp dụng Thông tư 46 và Thông tư liên tịch 01 thiếu thống nhất trong từng giai đoạn của vụ án đã dẫn đến nhiều vướng mắc thực tiễn liên quan đến việc hạn chế quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa, có thể kể đến như sau:
- Yêu cầu người bào chữa phải xuất trình “văn bản chấp thuận”, “đơn đề nghị có xác nhận” của cơ quan đang thụ lý vụ án, một số trường hợp “linh động” hơn nhưng phải có xác nhận qua điện thoại, tin nhắn từ điều tra viên, thẩm phán hoặc thư ký Tòa án;
- Cơ sở giam giữ phải “chờ giám sát”, “chờ phối hợp” nhưng không thông báo thời hạn giải quyết, khiến việc sắp xếp cuộc gặp bị trì hoãn không rõ thời hạn, làm giảm tính kịp thời của hoạt động bào chữa, đặc biệt là trường hợp vụ án đã gần đến ngày xét xử;
- Áp dụng Thông tư 46 ngay cả khi cơ quan đang thụ lý vụ án không còn là Cơ quan điều tra, dẫn đến việc quyền gặp ở giai đoạn truy tố hoặc xét xử tiếp tục bị hạn chế giống như giai đoạn điều tra;
- “Giám sát cuộc gặp” được thực hiện theo cách ngồi gần, nghe toàn bộ nội dung trao đổi, nhắc nhở các vấn đề nhỏ, gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả làm việc của người bào chữa;
- Người bào chữa không được thông báo trước về yêu cầu giám sát của cơ quan đang thụ lý vụ án, chỉ biết khi đến cơ sở giam giữ, dẫn đến phát sinh thời gian, chi phí và ảnh hưởng đến kế hoạch làm việc của người bào chữa.
- Thời lượng gặp gỡ bị cắt ngắn quá mức với lý do phụ thuộc vào lịch làm việc khác của người giám sát, dù ngay cả Thông tư 46 cũng không cho phép hạn chế thời lượng trên một lần gặp của người bào chữa (khoản 3 Điều 12);
- Yêu cầu giám sát chỉ được thông báo miệng, không có văn bản, dẫn đến khó khăn cho người bào chữa trong việc thực hiện quyền khiếu nại hoặc kiến nghị theo luật.
Bình luận về nội dung “không chấp nhận cho người bào chữa gặp bị cáo” trong Công văn của một Tòa án mà báo chí đang phản ánh [5].
Các phân tích nêu trên cho thấy rằng: quy định pháp luật hiện hành về quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa chỉ cho phép cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát cuộc gặp khi xét thấy cần thiết; không có bất kỳ quy định nào trao cho cơ quan đang thụ lý vụ án quyền từ chối việc gặp bị can, bị cáo của người bào chữa vì bất kỳ lý do gì.
Do đó, có cơ sở khẳng định rằng mọi nội dung “không chấp nhận cho người bào chữa gặp bị can, bị cáo” được đưa ra bởi bất kỳ cơ quan đang thụ lý vụ án nào đều không phù hợp với quy định của pháp luật.
3. Kết luận và kiến nghị
Về bản chất pháp lý, quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa là bộ phận không thể tách rời của quyền bào chữa của bị can, bị cáo – một trong những quyền được Hiến pháp bảo đảm. Khi bị can, bị cáo nhờ người bào chữa, giữa họ và người bào chữa phát sinh quyền và nghĩa vụ tố tụng đặc thù; theo đó, quyền gặp bị can, bị cáo này không phải là quyền tùy nghi theo kiểu “có thể gặp hoặc không”, mà là quyền mang tính “công cụ thiết yếu” để người bào chữa thực hiện các nghĩa vụ cốt lõi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
Ở cấp độ luật, quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa được thiết kế với cách tiếp cận trực tiếp, thủ tục đơn giản và chỉ có thể bị hạn chế trong những trường hợp thật sự đặc thù mang tính tình huống. Các điều khoản liên quan trong luật cũng không giao cho bất kỳ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào quy định chi tiết nội dung này, thể hiện rõ chủ trương của nhà làm luật bảo đảm quyền này ở mức tối đa.
Tuy nhiên, ở cấp độ văn bản dưới luật, có lẽ do nhu cầu quản lý phát sinh từ thực tiễn, các quy định liên quan đến việc “cần thiết giám sát” cuộc gặp lại được đặt ra và áp dụng mà không có hướng dẫn cụ thể về tiêu chí xác định, quy trình phối hợp hoặc hình thức văn bản.
Sự thiếu thống nhất và thiếu rõ ràng này dễ dẫn đến những hạn chế không cần thiết đối với quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa, từ đó phát sinh nhiều vướng mắc trên thực tiễn. Thậm chí đến mức, có cơ quan đang thụ lý vụ án ban hành văn bản với nội dung “không chấp nhận cho người bào chữa gặp bị can, bị cáo”. Điều này đặc biệt đáng quan ngại.
Vì vậy, tác giả kiến nghị:
- Rà soát các quy định mang tính hạn chế quyền gặp bị can, bị cáo của người bào chữa, theo hướng chỉ cho phép hạn chế trong những trường hợp thực sự đặc thù, mang tính tình huống hoặc phục vụ ở giới hạn thực sự cần thiết yêu cầu tố tụng, quản lý;
- Xây dựng nguyên tắc và tiêu chí rõ ràng để xác định trường hợp được phép hạn chế, đưa vào Bộ luật Tố tụng hình sự làm cơ sở cho văn bản dưới luật quy định quy trình thực hiện một cách minh bạch, thống nhất;
- Quy định bắt buộc rằng các yêu cầu liên quan đến việc gặp bị can, bị cáo của người bào chữa phải được ban hành dưới hình thức văn bản tố tụng, nhằm bảo đảm tính minh bạch, tạo điều kiện cho công tác kiểm sát và bảo đảm quyền khiếu nại của người bào chữa.
[1] Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Chuyển đơn vụ “Tòa ra văn bản không cho luật sư gặp bị can đang bị tạm giam”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, đăng ngày 01/12/2025. Truy cập lúc 15h ngày 01/12/2025, tại: https://lsvn.vn/lien-doan-luat-su-chuyen-don-vu-toa-ra-van-ban-khong-cho-luat-su-gap-bi-can-dang-bi-tam-giam-a166567.html
[2] Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.”
[3] Thông tư liên tịch 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018 quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam do Bộ trưởng Bộ Công an – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.
[4] Thông tư 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 quy định về trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành.
[5] Báo Pháp Luật TP. Hồ Chí Minh, “Tòa ra văn bản không chấp nhận luật sư gặp bị cáo đang bị tạm giam”, Truy cập lúc 10h ngày 02/12/2025 tại: https://plo.vn/toa-ra-van-ban-khong-chap-nhan-luat-su-gap-bi-cao-dang-bi-tam-giam-post883620.html
Thạc sĩ, Luật sư ĐẶNG KIM CHINH
Đoàn Luật sư TP. HCM

