1. Quyền nhờ người bào chữa người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; trong đó xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa đồng thời quy định các cơ quan cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người hơn ai hết biết được những tình tiết liên quan tới vụ án nói chung và những tình tiết liên quan tới họ nói riêng. Vì vậy, quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhờ bào chữa là một bảo đảm pháp lý hết sức cần thiết giúp cho họ có thể đưa ra những chứng cứ và lý lẽ biện minh, gỡ tội cho mình. Quyền nhờ bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được bảo đảm thực hiện xuyên suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra đến khi Toà án ra bản án và bản án đó có hiệu lực pháp luật. Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng không bị hạn chế, kể cả khi có người bào chữa bào chữa cho họ thì quyền này cũng vẫn được pháp luật bảo đảm.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Thứ nhất, quyền nhờ người bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố.
Người bào chữa có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, được có mặt trong những hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, khi tham gia các hoạt động này người bào chữa có điều kiện thu thập thêm một số tình tiết có ý nghĩa trong việc gỡ tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự của bị can.
Việc quy định người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, khi khởi tố bị can là cần thiết để đảm bảo cho việc tạm giữ và khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, đồng thời cũng đảm bảo việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cần thiết, tránh tình trạng tạm giữ, tạm giam bừa bãi và không đúng mục đích. Đồng thời, quy định thời điểm tham gia tố tụng từ rất sớm của người bào chữa nhằm đảm bảo cho người bào chữa có thể tiếp cận vụ án từ giai đoạn đầu và có cái nhìn toàn diện hơn về vụ án, quy định này cũng nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người bào chữa cũng được tham gia tố tụng sớm như vậy, trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện Kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
- Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên (ĐTV) đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác.
Được có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, người bào chữa có cơ hội được trực tiếp nghe người bị tạm giữ, bị can trình bày về những tình tiết của vụ án. Trong quá trình xét hỏi, người bào chữa có thể phát hiện ra những tình tiết có ý nghĩa có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi được ĐTV cho phép, người bào chữa có thể dùng những câu hỏi khéo léo của mình làm sáng tỏ những tình tiết minh oan cho người bị tạm giữ, minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị can.
Mặt khác, sự có mặt của người bào chữa trong khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, trong khi hỏi cung bị can sẽ làm cho người bị tạm giữ, bị can ổn định hơn về mặt tâm lý, yên tâm khai báo chính xác sự việc. Đồng thời, sự có mặt của người bào chữa cũng ngăn ngừa những vi phạm pháp luật từ phía ĐTV, tránh tình trạng ĐTV dụ cung, mớm cung, dùng nhục hình, ép cung đối với người bị tạm giữ, bị can. Khi phát hiện ĐTV vi phạm pháp luật trong quá trình lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can thì người bào chữa có quyền khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền để xử lý.
- Người bào chữa có quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định có liên quan tới người mà mình bào chữa.
Các biên bản mà người bào chữa được xem như biên bản lấy lời khai của người bị tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can, … khi kết thúc điều tra, người bào chữa được gửi bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra... được xem các biên bản, các quyết định đó sẽ giúp cho người bào chữa thực hiện tốt hơn nghĩa vụ bào chữa của mình đồng thời khi xem các biên bản, quyết định tố tụng nếu phát hiện ta những vi phạm pháp luật người bào chữa có thể khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền.
- Người bào chữa có quyền được cơ quan THTT thông báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
Khoản 1 Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho người bào chữa, do đó sự tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung bị can có ý nghĩa không chỉ đối với người bào chữa, với bị can mà còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, để đảm bảo cho việc tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung bị can, pháp luật quy định người bào chữa có quyền được cơ quan THTT thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung bị can. Quy định này cũng nhằm ràng buộc trách nhiệm của cơ quan THTT trong việc đảm bảo cho người bào chữa tham gia hỏi cung bị can.
- Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch.
Xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người THTT (Điều 21) hoặc người tham gia tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, khi có căn cứ thay đổi người THTT quy định tại Điều 49, người giám định tại khoản 5 Điều 68, người phiên dịch tại khoản 5 Điều 70, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền thay đổi những người nói trên.
- Người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu. Trừ trường hợp liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, xâm phạm an ninh quốc gia.
Trong quá trình làm nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa có thể phát hiện ra những đồ vật, tài liệu mà các cơ quan THTT chưa phát hiện ra được. Trong trường hợp này, người bào chữa có quyền đưa ra những đồ vật, tài liệu đó để cơ quan THTT xem xét nhưng chỉ khi những đồ vật, tài liệu đó có lợi cho người bị tạm giữ, bị can và không làm xấu đi tình trạng hiện thời của họ, như: những đồ vật, tài liệu chứng minh sự vô tội của bị can, chứng minh sự không liên quan của người bị tạm giữ đến những căn cứ là lý do bắt giữ họ… Trong giai đoạn điều tra, truy tố, người bào chữa có quyền đưa ra những yêu cầu: yêu cầu trưng cầu giám định,… cơ quan THTT phải tôn trọng quyền đưa ra yêu cầu của người bào chữa, nếu không đồng ý với những yêu cầu đó thì phải nêu rõ lý do.
- Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.
Việc bào chữa của người bào chữa sẽ trở thành hình thức nếu người bào chữa không hiểu rõ thái độ tâm lý, tâm tư của người bị tạm giữ, bị can. Điều 12, Thông tư số 46/2019/TT-BCA, cụ thể: “Cơ quan điều tra, Cơ sở giam giữ không được hạn chế số lần và thời gian trên một lần gặp của người bào chữa với người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam”. Khi gặp người bị tạm giữ, bị can, qua trao đổi, người bào chữa sẽ giúp cho người bị tạm giữ, bị can nhận thức đúng đắn việc bào chữa là nhằm bảo vệ những lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can trên cơ sở những quy định của pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án; giải thích những vấn đề pháp luật liên quan, cần thiết mà người bị tạm giữ, bị can chưa hiểu hoặc chưa biết cách trình bày trước các cơ quan THTT nhằm minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình; phân tích cho người bị tạm giữ, bị can hiểu phải khai báo thành khẩn để người bào chữa có căn cứ rõ ràng bảo vệ người bị tạm giữ, bị can.
- Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.
Quyền này được thực hiện sẽ giúp người bào chữa nắm vững được các tình tiết của vụ án. Có đọc hồ sơ, người bào chữa mới biết bị can bị buộc tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật Tố tụng hình sự, mới nắm được bị can bị buộc tội trên cơ sở nào từ đó mới tìm ra chứng cứ gỡ tội cho bị can. Thực tiễn cho thấy, nếu người bào chữa chỉ có mặt khi hỏi cung bị can hoặc tham dự các hoạt động điều tra khác thì không thể nắm được nội dung vụ án một cách đầy đủ. Do vậy quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về vụ án từ giai đoạn khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra nhằm tạo điều kiện để người bào chữa đánh giá đúng vai trò của bị can trong vụ án để chuẩn bị bào chữa.
Thứ hai, quyền nhờ người bào chữa trong giai đoạn xét xử.
- Người bào chữa có quyền gặp bị cáo đang bị tạm giam, có quyền tiếp xúc với bị cáo tại phiên toà khi chủ toạ phiên toà cho phép.
Sau khi đã nghiên cứu hồ sơ vụ án, người bào chữa gặp bị cáo để nắm vững diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Nếu bị cáo không phạm tội thì việc gặp bị cáo giúp người bào chữa nắm vững chứng cứ gỡ tội, thấy được oan sai trong quá trình THTT, từ đó củng cố niềm tin nội tâm của mình khi bào chữa. Pháp luật quy định người bào chữa phải tôn trọng sự thật không được xúi giục bị cáo khai báo gian dối.
Trong giai đoạn xét xử người bào chữa có quyền đưa ra những yêu cầu: Yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét, yêu cầu hoãn phiên toà khi có người vắng mặt tại phiên toà, yêu cầu tiếp tục việc xét hỏi nếu còn những điểm chưa rõ… Quyền đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu của người bào chữa có ý nghĩa quan trong với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo đồng thời giúp HĐXX đánh giá vụ án một cách khách quan.
- Người bào chữa có quyền tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên toà.
Khi xét hỏi tại phiên toà, Toà án sẽ trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của những người tham gia tố tụng, xem xét vật chứng, nghe ý kiến của kiểm sát viên (KSV), người bào chữa… Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà. Vì vậy tại phiên toà xét xử, vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi cần thiết người bào chữa có thể cùng Hội đồng xét xử xem xét vật chứng không thể mang tới hiện trường hoặc xem xét tại chỗ để tìm ra những tình tiết gỡ tội cho bị cáo.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi, người bào chữa tham gia tranh luận tại phiên toà, được phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ và bày tỏ quan điểm để bảo vệ bị cáo. Khi tham gia tranh luận, người bào chữa có quyền bình đẳng với những người tham gia tranh luận. Người bào chữa có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra ý kiến của mình. KSV phải đưa ra lập luận của mình đối với từng ý kiến. Chủ toạ phiên toà có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa mà những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận.
- Người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
- Người bào chữa có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm o, khoản 1 Điều 73 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, trong trường hợp này người bào chữa có quyền kháng cáo không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp của bị cáo, tuy nhiên kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
- Người bào chữa có quyền tham gia phiên toà phúc thẩm.
- Tại phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, nếu thấy cần thiết thì Toà án phải triệu tập người bào chữa.
2. Một số kiến nghị bảo đảm quyền có mặt của người bào chữa
Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể các cụm từ “có thể”, “có thể cho”, “trường hợp cần thiết” tại các điều luật cụ thể quy định về các hoạt động thu thập chứng cứ, quyền tham gia các hoạt động này của người bào chữa khi chưa được khẳng định rõ sử dụng các cụm từ “có thể”; “có thể cho”; “trường hợp cần thiết”.
Chẳng hạn, khoản 2 Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Khi khám nghiệm hiện trường phải có người chứng kiến; có thể cho bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng tham gia và mời người có chuyên môn tham dự việc khám nghiệm”; khoản 3 Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Cơ quan điều tra có thể mời người có chuyên môn tham gia. Trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng có thể tham gia”.
Như vậy, đối với các điều luật nêu trên cho thấy, sự có mặt của người bào chữa trong những hoạt động tố tụng này là không bắt buộc trong mọi trường hợp. Điều đó thể hiện sự không thống nhất giữa quy định chung về quyền của người bào chữa tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các quy định về hoạt động điều tra cụ thể có sự tham gia của người bào chữa. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 không giải thích rõ thuật ngữ “trường hợp cần thiết”, “có thể” được hiểu như thế nào? Khi nào thì được xem là trường hợp cần thiết? Do đó, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để tránh việc các cơ quan có thẩm quyền THTT dựa trên sự đánh giá chủ quan của mình có thể mời hoặc không mời người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội.
Thứ hai, cần có văn bản hướng dẫn về thời gian thông báo cụ thể cho người bào chữa trước khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động tố tụng mà người bào chữa có quyền tham gia, khoản 1 Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho người bào chữa khi tham gia vào các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chỉ quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm hoạt động tố tụng họ có quyền tham gia. Vậy “thời gian hợp lý” được hiểu như thế nào, báo trước 24 giờ hay 48 giờ? Thông tư số 46/2019 ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án phải thông báo cho người bào chữa thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng mà người bào chữa có quyền tham gia, tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp người bào chữa cư trú cùng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc; 48 giờ đối với trường hợp người bào chữa cư trú khác tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc trước ngày tiến hành hoạt động tố tụng; trường hợp người bào chữa nhất trí với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thời hạn sớm hơn thì thực hiện theo thỏa thuận đó.
Thứ ba, Điều 114 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về những việc cần làm ngay sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ bị bắt, thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành lấy lời khai ngay. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa khi thực hiện quyền bào chữa đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại đoạn 2 Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau: “Trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ”.
Theo tác giả, cần sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau: “Trong thời hạn 24 giờ đối với trường hợp bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam; trong thời gian 02 giờ đối với trường hợp bào chữa cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng…”, để đảm bảo sự có mặt của người bào chữa khi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có yêu cầu nhờ người bào chữa, đơn giản hóa thủ tục cấp đăng ký bào chữa để họ có thể tiếp cận người bào chữa trong thời gian sớm nhất.
Có thể thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan tới việc người bào chữa cũng như quyền được nhờ người bào chữa có nhiều quy định mới được sửa đổi, bổ sung góp phần nâng cao vị trí của người bào chữa trong việc thực hiện chức năng bào chữa của mình. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên thì thực tiễn hoạt động của người bào chữa vẫn còn một số điểm chưa linh hoạt, còn khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết một số vụ án. Trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết để các quy định này được thực hiện một cách linh hoạt và nghiêm túc. Bảo đảm cho quá trình tác nghiệp của người bào chữa, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, tránh oan sai, bảo đảm sự công tâm khách quan, thấu tình đạt lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.