Sự ra đời, ý nghĩa của Sắc lệnh 46/SL
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, mặc dù chính quyền cách mạng non trẻ mới ra đời, nhưng với mong muốn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần xây dựng một hệ thống tư pháp công bằng nên từ rất sớm Sắc lệnh số 46/SL về tổ chức đoàn thể luật sư đã được ban hành.

Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945.
Sắc lệnh số 46/SL chỉ gồm 7 điều ngắn gọn, song đã hàm chứa đầy đủ các vấn đề cần thiết và mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết, văn bản tiếp tục kế thừa một số nội dung, như việc cho phép duy trì “các tổ chức các đoàn thể luật sư” hay “luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các tòa án quân sự” mà Sắc lệnh ngày 25 tháng 5 năm 1930 đã quy định. Sắc lệnh ngày 25 tháng 5 năm 1930 là một văn bản pháp quy của Toàn quyền Pháp tại Đông Dương, quy định về việc tổ chức và hoạt động của nghề luật sư tại Việt Nam, đồng thời chính thức cho phép người Việt tham gia hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, Sắc lệnh số 46/SL đã quy định việc thay thế, bổ sung một số nội dung mới phù hợp với tình hình thực tế, như điều kiện, tiêu chuẩn của luật sư… Văn bản này cũng cho biết, trước khi được ký ban hành theo đề nghị của Bộ trưởng Tư pháp, nhiều vấn đề liên quan đã được “hỏi ý kiến của ông Chánh nhất, ông Chưởng lý Tòa Thượng thẩm và các luật sư Hà Nội” và đã được “Hội đồng Chính phủ thỏa luận” vào ngày 04/10/1945.
Sự ra đời của Sắc lệnh số 46/SL còn trở nên đặc biệt và thú vị hơn khi nhắc đến vai trò và mối quan hệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với giới luật sư. Các tài liệu lịch sử cho biết, từ những năm đầu trên hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thời gian gắn bó với vị tiến sĩ, luật sư người Việt Nam đầu tiên - ông Phan Văn Trường. Ngay trên đất Pháp, họ không những đã có những ngày tháng ở bên nhau, mà còn cùng đứng ra thành lập “Hội người An Nam yêu nước” vào năm 1917 và soạn nên bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi tới Hội nghị Versailles vào ngày 18/6/1919. Một câu chuyện khác mà lâu nay vẫn được mọi người biết đến qua sự kiện “vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông” diễn ra vào năm 1931. Lúc này Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tên là Tống Văn Sơ đang hoạt động cách mạng trên đất Hồng Kông, Người đã được Luật sư Loseby cùng cộng sự bênh vực và cứu khỏi âm mưu thâm độc của thực dân Anh - Pháp. Đặc biệt, ngày 10/10/1929 là ngày mà tòa án thực dân Pháp ở Vinh đã tuyên tử hình vắng mặt đối với nhà cách mạng Nguyễn Tất Thành, người sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với tư tưởng đạo đức trong sáng, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết nên ngay sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp, huy động được đông đảo trí thức tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Nghe theo lời kêu gọi của Người, nhiều nhân sĩ trí thức, luật sư đã hướng theo cách mạng. Người đã trọng dụng, bổ nhiệm nhiều luật sư vào những vị trí, công việc quan trọng của Chính phủ. Về phần mình, các luật sư cũng đã cống hiến hết mình, họ sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giàu sang để tham gia kháng chiến, góp phần tạo lập nên những thiết chế cho chính phủ mới, giải quyết những vấn đề phát sinh trong xã hội, thậm chí có người đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Luật sư Vũ Trọng Khánh (đứng). Ảnh tư liệu.
Không chỉ hàm súc về nội dung, mang giá trị về thời khắc ra đời, Sắc lệnh 46/SL còn có ý nghĩa sâu sắc ở nhiều khía cạnh.
Về lịch sử, Sắc lệnh 46/SL ra đời ngay trong những ngày đầu tạo lập nên chính quyền mới. Sắc lệnh đã chính thức hóa và hợp pháp hóa hoạt động luật sư, xác quyết luật sư là một nghề chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn để hành nghề, từ đó đặt nền móng cho việc xây dựng, phát triển của luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam suốt 80 năm qua. Bên cạnh đó, việc sớm ban hành Sắc lệnh đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư trong xã hội, khẳng định vai trò của họ trong việc bảo vệ công lý, giảm thiểu án oan sai, góp phần bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho các tổ chức, cá nhân.
Về pháp luật, Sắc lệnh 46/SL là văn bản pháp lý đầu tiên tại Việt Nam quy định về tổ chức nghề luật sư trong khuôn khổ một nhà nước độc lập. Sắc lệnh này là một phần của lịch sử hình thành hệ thống luật pháp của Việt Nam và là tiền đề cho các quy định pháp luật sau này, bao gồm cả các đạo luật quan trọng nhất khi quyền bào chữa và hoạt động của nghề luật sư luôn được ghi nhận trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 ở nước ta.
Về chính trị - xã hội, Sắc lệnh 46/SL thể hiện tư duy pháp quyền tiến bộ và nhân văn của chính quyền cách mạng ngay từ những ngày đầu lập quốc. Trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, việc chú trọng đến tổ chức hoạt động luật sư cho thấy Nhà nước đã sớm nhìn nhận: tầm quan trọng của quyền được bào chữa - một quyền cơ bản của con người; vai trò của luật sư trong việc bảo đảm xét xử công bằng, đúng pháp luật; nghề luật sư không chỉ là một dịch vụ pháp lý mà còn là một trụ cột của nền tư pháp dân chủ.
Sắc lệnh 46/SL đã khẳng định sự tồn tại chính danh và cần thiết của nghề luật sư trong một nhà nước dân chủ non trẻ. Dấu mốc này còn là tiền đề để mở đường cho sự phát triển bền vững của nghề luật sư trong xã hội Việt Nam hiện đại, góp phần thúc đẩy sự chuyên nghiệp, chuẩn hóa nghề luật sư, nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động bảo vệ pháp lý, công bằng xã hội.
Thấy được giá trị, ý nghĩa của Sắc lệnh 46/SL và để ghi nhận về truyền thống, sự nỗ lực cùng những đóng góp của luật sư trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước, ngày 14/01/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 149/QĐ-TTg lấy ngày 10 tháng 10 hằng năm là Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam.
Vai trò của các luật sư tiêu biểu trong chính quyền cách mạng
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh còn đầy khó khăn, thách thức. Trong tình hình đó và trên cơ sở Sắc lệnh số 46/SL, nhiều luật sư tiêu biểu đã chủ động đứng về phía cách mạng. Họ đã đảm nhận những vị trí quan trọng trong chính quyền mới, tích cực đóng góp vào công cuộc đấu tranh chung của dân tộc, tham gia kiến tạo nên bộ máy chính quyền mới góp phần xây dựng nền móng pháp lý, tư pháp và giáo dục pháp luật cho đất nước.
Trong bảng vàng truyền thống nghề luật sư 80 năm qua, trước hết phải kể đến ba luật sư tiêu biểu có cùng năm sinh (1912), đều trở thành bộ trưởng trong Chính phủ cách mạng từ rất sớm. Luật sư Phan Anh (1912-1990), người giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ Liên hiệp Quốc gia, rồi hàng chục năm đảm nhận vai trò bộ trưởng của nhiều bộ khác nhau (Kinh tế, Công thương, Thương nghiệp, Ngoại thương), là Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông là người tham gia sáng lập Hội Luật gia Việt Nam và giữ vai trò Chủ tịch Hội. Luật sư Vũ Đình Hòe (1912-2011), người nhận nhiệm vụ vào Bắc Bộ phủ thuyết phục Khâm sai Phan Kế Toại từ chức. Tháng 8/1945, ông tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào và là đại biểu Quốc hội khóa I. Chính phủ Liên hiệp lâm thời Việt Nam thành lập (tháng 8/1945 - tháng 3/1946), ông là Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục, rồi thay Luật sư Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong suốt 15 năm sau đó. Năm 1957, ông là một trong số 29 thành viên Ban sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban và đã dự thảo bản Hiến pháp năm 1959. Luật sư Vũ Trọng Khánh (1912-1996), người đã tham gia bào chữa cho nhiều chiến sĩ cách mạng tại tòa án của thực dân Pháp. Khi Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra mắt vào ngày 02/9/1945, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Ông là một trong 7 thành viên tham gia Ủy ban dự thảo Hiến pháp năm 1946. Sau đó, ông được cử tham gia công tác nghiên cứu pháp luật và ngày 04/6/1946 làm cố vấn cho Phái đoàn Việt Nam sang đàm phán tại Paris. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thành viên Hội đồng Tư vấn luật, ông đã tham gia soạn thảo nhiều văn bản pháp quy cho hệ thống luật của chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường và đồng nghiệp tham dự Hội nghị Luật gia Dân chủ Quốc tế (1956). Ảnh tư liệu gia đình.
Tham gia hoạt động trong bộ máy chính quyền và giữ vị trí cốt cán của các tổ chức, phong trào đấu tranh cách mạng còn có nhiều luật sư tiêu biểu khác, như: Tiến sĩ, Luật sư Vũ Văn Hiền (Tổng Thư ký phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đàm phán với Pháp tại Hội nghị Đà Lạt tháng 4/1946); Tiến sĩ, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (thành viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, Phó Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam); Luật sư Phan Mỹ (Chánh Văn phòng Chủ tịch Chính phủ); Tiến sĩ, Luật sư Phạm Văn Bạch (Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao); Luật sư Phạm Ngọc Thuần (Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ); Luật sư Trần Công Tường (Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Quyền Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp chế của Hội đồng Bộ trưởng); Luật sư Nguyễn Văn Hưởng (Thứ trưởng Bộ Tư pháp); Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh (Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao); Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam, sau năm 1975 là Chủ tịch Quốc hội, Quyền Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam); Tiến sĩ, Luật sư Trịnh Đình Thảo (Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam). Ngoài ra, còn phải kể đến các luật sư đã tích cực tham gia hoạt động trong các phong trào cách mạng ở miền Nam trước năm 1975, như: Luật sư Trần Ngọc Liễng, Luật sư Thái Văn Lung, Luật sư Triệu Quốc Mạnh…

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ với các chiến sĩ giải phóng. Ảnh tư liệu.
Sự tham gia của các luật sư trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước luôn thể hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc, nhưng bên cạnh đó cũng cho thấy sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tin tưởng, trọng dụng đối với giới luật sư. Sự xuất hiện của những trí thức luật sư tên tuổi, không những góp phần nâng cao uy tín, vai trò của chính quyền nhân dân, giúp cho công tác quản lý, điều hành hoạt động trở nên mạnh mẽ, bài bản, hiệu quả, mà còn góp phần bổ sung những tri thức, kinh nghiệm quý báu, tạo nên sức lan tỏa lớn ngay trong bộ máy nhà nước và với cộng đồng.
Các luật sư đồng thời đã góp phần bảo đảm cho việc triển khai hiệu quả các nhiệm vụ chính trị - xã hội, xây dựng chính quyền cách mạng thực sự của dân, do dân, vì dân. Thực tiễn chứng minh, đã có nhiều luật sư được tín nhiệm, được giao giữ các vị trí quan trọng trong các chính phủ và chính quyền cách mạng. Từ đó giúp họ có cơ hội cống hiến vào sự nghiệp chung của đất nước. Bằng uy tín, năng lực và tinh thần yêu nước, các luật sư đã hăng hái cống hiến, phục vụ cách mạng. Họ không chỉ là những người trực tiếp tham gia vào công tác quản lý, điều hành bộ máy chính quyền, mà còn sẵn sàng đảm nhận các nhiệm vụ khó khăn khi được giao phó. Thực tiễn cho thấy, để sớm có bản Hiến pháp 1946 hàm súc, chặt chẽ cùng các văn pháp lý có giá trị ngay sau khi giành được chính quyền và trong quá trình quản lý, điều hành công việc chung của đất nước đã có sự đóng góp rất lớn của các luật sư. Đơn cử, trong 7 thành viên dự thảo Hiến pháp năm 1946 có 02 luật sư tham gia (Luật sư Vũ Trọng Khánh và Luật sư Vũ Đình Hòe).
Trong các sự kiện trong nước và quốc tế quan trọng, cũng như quá trình chuẩn bị và tham gia các cuộc đàm phán, đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, các luật sư luôn được kỳ vọng và thường giữ vai trò cốt yếu. Tại Hội nghị Đà Lạt (năm 1946), trong số 12 thành viên chính thức có 02 luật sư là Vũ Văn Hiền, Nguyễn Mạnh Tường. Tham dự Hội nghị Fontainebleau (diễn ra từ tháng 6 đến tháng 9/1946), có 03 thành viên là luật sư (Luật sư Vũ Trọng Khánh, Luật sư Phan Anh, Luật sư Vũ Văn Hiền (do ông bị bệnh nên cuối cùng đã không tham dự)… Cùng với đó, còn phải kể đến vị trí, vai trò, ảnh hưởng và các hoạt động đa dạng khác mà các luật sư danh tiếng đã từng tham gia, thực hiện. Đó là đảm nhận việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp lý; bào chữa, bảo vệ những người yêu nước, các chiến sĩ cách mạng, tạo nên niềm tin yêu trong quần chúng nhân dân; giữ vị trí cố vấn, tiên phong trong nhiều tổ chức, phong trào đấu tranh cách mạng; trực tiếp tham gia quản lý, giải quyết thành công trong các vụ việc, sự kiện quốc tế…
Sự tiên phong, cống hiến, danh tiếng của các luật sư trong thời kỳ đầu của chính quyền cách mạng đã tạo lập nên uy tín, truyền thống quý báu cho nghề luật sư ở Việt Nam. Họ không những là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, đạo đức trong sáng, sự hy sinh thầm lặng, mà còn thể hiện tốt trách nhiệm nghề nghiệp với đất nước và xã hội. Với kiến thức sâu rộng, lòng yêu nước và lý tưởng vì công lý, các luật sư đã trở thành những nhân tố chủ chốt trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, thể chế và bộ máy nhà nước pháp quyền cách mạng. Họ đã trở thành những tâm gương sáng về uy tín, đạo đức hành nghề luật và là những người định hướng pháp lý cho một chính quyền non trẻ, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tư pháp Việt Nam hiện đại.
Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển, được đánh dấu từ Sắc lệnh số 46/SL, nhiều thế hệ luật sư Việt Nam đã và đang kế tục truyền thống nghề nghiệp, noi theo những tấm gương luật sư đi trước để hòa mình vào công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Sắc lệnh số 46/SL ngày 10 tháng 10 năm 1945.
2. TS.LS Liêu Chí Trung, Luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam, Nxb Lao động, 2023.
3. TS.LS Liêu Chí Trung, Những luật sư tiêu biểu trong các chính phủ và chính quyền cách mạng, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số tháng 10/2022.
TS. LS LIÊU CHÍ TRUNG
Phó Tổng biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam

