1. Phân bổ, sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước
(LSVN) - Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái vừa ký ban hành Công điện 310/CĐ-TTg ngày 10/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc phân bổ, sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước năm 2021.
![]()
Ảnh minh họa.
Công điện nêu rõ, năm 2021, trong bối cảnh nền kinh tế đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, giám sát, đồng hành của Quốc hội, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự ủng hộ của doanh nghiệp, người dân, cộng đồng quốc tế, đất nước ta đã đạt nhiều kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội; trong đó, thu ngân sách trung ương và thu ngân sách địa phương đều vượt dự toán, nhiều địa phương tăng thu lớn.
Để phân bổ, sử dụng hiệu quả nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp tăng thu, tiết kiệm chi (nhất là chi sự nghiệp có tính chất đầu tư), chủ động sử dụng nguồn lực của địa phương để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; trong đó sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách địa phương theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật liên quan, bố trí cho đầu tư các công trình, dự án của địa phương phải bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, dứt khoát không dàn trải, manh mún, chia cắt, góp phần thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Đồng thời, gửi kết quả phân bổ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách địa phương năm 2021 để thực hiện đầu tư các công trình, dự án cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong tháng 5 năm 2022 để tổng hợp chung, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 6 năm 2022.
Ngoài ra, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương xây dựng phương án phân bổ, sử dụng nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2021 theo đúng ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 877/VPCP-KTTH ngày 29 tháng 3 năm 2022, bảo đảm đúng quy định, tiến độ theo yêu cầu.
DUY ANH
Đi làm dịp nghỉ lễ người lao động được hưởng chế độ như thế nào?
2. Hạn chế tối đa việc giao cho bộ, ngành hướng dẫn luật
(LSVN) - Theo Báo cáo Dòng chảy pháp luật kinh doanh 2021 của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thì từ ngày 01/01/2016 đến ngày 20/7/2020, số lượng thông tư được ban hành chiếm hơn 68% tổng số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Như vậy, trung bình mỗi luật hiện có 25,8 thông tư và 1,9 thông tư liên tịch hướng dẫn, tương đương 28 thông tư/luật.
![]()
Ảnh minh họa.
Chỉ nhìn vào số liệu thống kê này, chúng ta thấy rất rõ số lượng thông tư hướng dẫn luật quá lớn. Đặc biệt là thông tư thuộc lại do nhiều bộ, ngành ban hành, nhiều khi cùng một vấn đề mỗi cơ quan hướng dẫn một kiểu gây khó cho người dân, doanh nghiệp có thể áp dụng triển khai thuận lợi, chính xác. Thậm chí, các cơ quan quản lý, thực thi pháp luật cũng khó khăn trong việc áp dụng, vận dụng vì đôi khi các văn bản chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập, khác biệt nhau.
Bên cạnh đó, việc một số luật chỉ quy định khung, ống hoặc quá 'mở' nên có nguy cơ bị các văn bản hướng dẫn dưới luật vô hiệu hóa! Bởi nhiều quy định để cho bộ, ngành hướng dẫn làm cho tinh thần của văn bản luật của cơ quan làm luật là Quốc hội, không được bộ, ngành liên quan lĩnh hội đầy đủ, thậm chí là sai, trái tinh thần của luật.
Mặt khác, việc nhiều luật phụ thuộc vào hướng dẫn của thông tư làm giảm hiệu lực, hiệu quả của luật, chẳng hạn có đến hơn 70 thông tư hướng dẫn Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đúng ra luật chỉ nên giao nghị định hướng dẫn nằm hạn chế chồng chéo, bất cập; đảm bảo khách quan, minh bạch, nhất là hạn chế tình trạng lợi ích cục bộ của bộ, ngành. Bởi ở tầm nghị định trước khi ban hành sẽ có cơ quan thẩm định độc lập là Bộ Tư pháp và đưa ra thảo luận ở tập thể Chính phủ, còn thông tư chỉ giao cho cơ quan pháp chế của bộ, ngành đó thẩm định trước khi trình thủ trưởng bộ, ngành ban hành nên khó mà khách quan được.
Ngoài ra, việc sửa đổi các thông tư hướng dẫn cũng khá tùy tiện không được rà soát, tổng kết, đánh giá kỹ lưỡng, toàn diện nên một số nội dung sửa đổi, bổ sung chưa hợp lý, chưa triệt để, toàn diện. Nhiều văn bản hướng dẫn sửa đổi, bổ sung theo kiểu 'vướng đâu, sửa đấy', làm luật theo kiểu 'đẽo cày giữa đường' nên càng sửa, lại càng vướng vì liên quan đến các nội dung, quy định khác.
Thiết nghĩ, để giải quyết triệt để tình trạng này cần hạn chế tối đa việc giao cho cơ quan chức năng hướng dẫn luật, nhất là các bộ, ngành. Theo đó, các nội dung, quy định phải được thể hiện rõ, cụ thể ngay trong văn bản luật, trường hợp cần hướng dẫn thì chỉ giao đến Chính phủ hướng dẫn ở tầm nghị định.
Cùng với đó, nên giao cho một cơ quan làm đầu mối hướng dẫn luật, bỏ việc hướng dẫn liên tịch hoặc một luật nhưng giao cho nhiều cơ quan hướng dẫn như hiện nay. Bởi như vậy không chỉ dẫn đến chồng chéo, bất cập mà còn có thể dẫn đến các điều kiện bất hợp lý, vì lợi ích bộ, ngành được cài, cắm vào thông tư để gây khó, ảnh hưởng tiêu cực đến doanh nghiệp, người dân./.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
Quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động
3. Tội ‘Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi’ trong Bộ luật Hình sự 2015
(LSVN) - Để bảo vệ các quyền trẻ em theo nội dung của Công ước, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý khác nhau, trong đó có các quy định của pháp luật hình sự quy định về các tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em trong Bộ luật Hình sự của nước ta. Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu và đưa ra các đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” trên thực tế.
![]()
Ảnh minh họa.
1. Quy định của pháp luật về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”
Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” được quy định trong chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Điều 146 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau:
“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, …”. Dễ nhận thấy, so sánh với Bộ luật hình sự năm 1999, cụm từ “trẻ em” không còn được sử dụng trong BLHS năm 2015, thay vào đó, nhà làm luật đã chi tiết hóa độ tuổi của nhóm đối tượng này, đó là “người dưới 16 tuổi”.
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi bao gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm như sau:
Về chủ thể: Chủ thể của tội phạm ngoài việc phải có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) thì điều kiện thứ hai không thể thiếu được đó là phải đạt đến độ tuổi chịu TNHS. Độ tuổi phải chịu TNHS về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” là quy định đặc biệt, bên ngoài giới hạn quy định độ tuổi chịu TNHS nói chung tại Điều 12 BLHS. Điều 146 BLHS quy định trực tiếp độ tuổi của người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Theo đó, độ tuổi là dấu hiệu đặc biệt của chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Mặc dù cách dùng từ khác nhau, BLHS 1999 quy định chủ thể tội phạm là “người đã thành niên” thì BLHS năm 2015 quy định cụ thể hơn là “người nào từ đủ 18 tuổi trở lên” nhưng xét cho cùng đều là một nghĩa, vì người đã thành niên theo quy định của pháp luật Việt Nam chính là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Vì vậy, chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là người đủ 18 tuổi trở lên và phải có năng lực TNHS.
Về khách thể: BLHS năm 2015 xếp tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thuộc Chương XIV – Các tội xâm phạm tính mạng. sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Do đó, khách thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm và quyền được phát triển bình thường về tình dục của người dưới 16 tuổi.
Việc BLHS năm 2015 quy định chi tiết độ tuổi của nạn nhân trong tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không những giải quyết được những vướng mắc về khái niệm “trẻ em" trong BLHS năm 1999 trước đây mà còn đảm bảo tính thống nhất về chính sách hình sự đối với tội dâm ô đối với trẻ em từ trước đến nay, đảm bảo tính lâu dài ổn định trong quy định của BLHS. Ngoài ra, việc nhà làm luật lựa chọn độ tuổi 16 là hoàn toàn phù hợp bởi ở độ tuổi này tâm sinh lý của trẻ em còn chưa phát triển đầy đủ, việc bị xâm hại tình dục sẽ gây ra những hậu quả xấu đối với trẻ em cả về thể xác lẫn tinh thần.
Về mặt khách quan: Đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Giống như quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 cũng không mô tả hành vi của tội phạm mà nhắc lại tên tội danh trong điều luật, đó là “dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Đây là sự kế thừa kỹ thuật lập pháp của BLHS năm 1999 về mô tả hành vi của tội phạm đồng thời thể hiện văn hóa pháp lý của nhà nước ta, đó là tránh mô tả các từ ngữ nhạy cảm trong BLHS.
Về mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” là lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” là nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội hoặc kích thích, khơi gợi nhu cầu tình dục của người dưới 16 tuổi.
Lỗi cố ý của người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thể hiện ở việc người phạm tội nhận thức rõ hành vi đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, là hành vi xâm hại tình dục không phải là hành vi giao cấu hay hành vi quan hệ tình dục khác.
Tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” trong BLHS năm 2015 có 03 khung hình phạt với mức hình phạt khá nghiêm khắc. Khung hình phạt cơ bản (khoản 1) có mức hình phạt là “phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Khung hình phạt tăng nặng tại khoản 2, khoản 3 có mức hình phạt tối thiểu là 03 năm tù và 07 năm tù. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung bắt buộc là “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Ngoài ra, Điều 146 BLHS năm 2015 không quy định các tình tiết định khung không rõ ràng như “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” như trong BLHS năm 1999 mà thay vào đó đã cụ thể hóa các tình tiết này thành “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%” (điểm đ khoản 2) và “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể trên 61%” (điểm a khoản 3), “làm nạn nhân tự sát” (điểm b khoản 3).
Ngoài ra, “phạm tội 02 lần trở lên”, “đối với 02 người trở lên” cũng là những tình tiết thay thế cho tình tiết “phạm tội nhiều lần”, “phạm tội đối với nhiều trẻ em”. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 cũng bổ sung thêm tình tiết “phạm tội có tổ chức” (điểm a khoản 2). So với quy định của BLHS năm 1999 thì đây là tình tiết định khung mới được bổ sung.
2. Một số đề xuất, kiến nghị
Có thể thấy rằng, việc bổ sung dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng mới tại Điều 146 BLHS năm 2015 cho thấy nhà làm luật đã nhận thức đầy đủ hơn về tính nguy hiểm của tội phạm, qua đó góp phần làm cho hoạt động đấu tranh chống tội phạm này đạt hiệu quả cao trong thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu tội tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” trong BLHS năm 2015 cho thấy quy định về tội phạm này cũng còn những hạn chế cần được tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện. Cụ thể:
Thứ nhất, đối với tình tiết định khung tăng nặng “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thế từ 31% đến 60%”. Nhà làm luật nên quy định trường hợp dâm ô mà gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 21% đến 60% thì người phạm tội bị áp dụng khoản 2 Điều 146 BLHS mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.
Thứ hai, đối với tình tiết giảm nhẹ TNHS “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” (điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS). Việc chia điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS thành hai tình tiết giảm nhẹ là “người phạm tội thành khẩn khai báo” và “người phạm tội ăn năn hối cải” để áp dụng xử phạt bị cáo ở khung hình phạt nhẹ hơn cũng là hợp lý. Vì suy cho cùng việc xử lý các bị cáo trong các vụ án này cũng rất dễ dàng và quá trình điều tra giải quyết được nhanh chóng thuận lợi hơn so với các bị cáo quanh co chối tội, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Thứ ba, sửa đổi Điều 146 BLHS năm 2015 theo hướng người phạm tội “biết rõ là trẻ em dưới 16 tuổi mà vẫn thực hiện hành vi dâm ô nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác”. Do điều luật không quy định rõ ý thức của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội phải biết rõ nạn nhân là trẻ em dưới 16 tuổi nên trong thực tế khi xét xử đối với tội này nhiều người phạm tội cho rằng trước khi phạm tội thì họ ý thức rằng người bị hại đã trên 16 tuổi (do sự phát triển đầy đủ về thể hình và có trường hợp khi quen biết nhau người bị hại đã nói dối họ về độ tuổi là trên 16 ...) và khi người bị hại đồng thuận cho phép thì họ mới thực hiện hành vi. Vì vậy họ cho rằng mình không vi phạm pháp luật vì không thể biết rõ chính xác được độ tuổi của người bị hại.
Để khắc phục những bất cập này và để cho việc xử lý người phạm tội một cách thuyết phục, cho họ thấy được lỗi lầm của mình thì cần thiết phải sửa đổi điều luật theo hướng quy định rõ trong cấu thành tội phạm là người phạm tội trước khi thực hiện hành vi dâm ô với người bị hại thì phải biết rõ người bị hại là trẻ em trong độ tuổi dưới 16 tuổi.
Thứ tư, nên xem xét việc giảm độ tuổi phải chịu TNHS về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo hướng “người nào đủ 18 tuổi trở lên” thành “người nào đã 16 tuổi trở lên”. Việc quy định tuổi chịu TNHS sớm hơn không vi phạm pháp luật quốc tế cũng như không làm giảm đi tính chất nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Do điều kiện sống của trẻ em ngày càng tốt hơn, sự phát triển về thể chất, năng lực nhận thức, năng lực hành vi của trẻ em vượt bậc hơn so với các thế hệ trước đây. Do vậy. việc giảm độ tuổi chịu TNHS về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là cần thiết.
NGUYỄN PHI HÙNG
Toà án Quân sự Quân khu 4
Một số vấn đề về chủ thể của tội phạm tình dục trong pháp luật hình sự hiện nay
4. Các trường hợp từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định RCEP
(LSVN) - Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư 05/2022/TT-BCT ngày 18/02/2022 quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (Hiệp định RCEP). Trong đó quy định rõ về các trường hợp từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định RCEP.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, Điều 27 Thông tư quy định rõ cơ quan hải quan của nước thành viên nhập khẩu từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan đối với một trong hai trường hợp sau:
- Hàng hóa không đáp ứng quy định tại Thông tư này.
- Nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hóa không chứng minh được hàng hóa đáp ứng quy định tại Thông tư này để được hưởng ưu đãi thuế quan.
Trường hợp cơ quan hải quan của nước thành viên nhập khẩu từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan, cơ quan hải quan phải cung cấp cho nhà nhập khẩu quyết định bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối.
Cơ quan hải quan của nước thành viên nhập khẩu từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan trong các trường hợp sau đây:
- Cơ quan hải quan không nhận được đủ thông tin để xác định hàng hóa có xuất xứ.
- Nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên xuất khẩu không phản hồi bằng văn bản đề nghị kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa theo quy định tại Điều 24 Thông tư này.
- Đề nghị kiểm tra, xác minh tại cơ sở sản xuất theo quy định tại Điều 24 Thông tư này bị từ chối.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 04/4/2022.
Cơ quan, tổ chức cấp C/O xem xét cấp C/O mẫu RCEP cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trước ngày Thông tư này có hiệu lực để được hưởng ưu đãi thuế quan theo quy định của Hiệp định RCEP và của nước thành viên nhập khẩu.
Cơ quan hải quan nước thành viên nhập khẩu chấp nhận chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa được phát hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022. Thủ tục kiểm tra chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa để cho hưởng ưu đãi thuế quan được thực hiện theo quy định của Hiệp định RCEP, các nội dung quy định tại Chương III Thông tư này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
TIẾN HƯNG
Cây nêu ngày Tết trong văn hóa dân gian Việt Nam
5. Đề xuất mới về Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh phóng viên, biên tập viên
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình, âm thanh viên, phát thanh viên, kỹ thuật dựng phim, quay phim thuộc chuyên ngành Thông tin và Truyền thông của Bộ Thông tin và Truyền thông.
![]()
Theo đó, đối với tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng, dự thảo đề xuất: Biên tập viên hạng I và II đều có yêu cầu chung là có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành biên tập viên hoặc có chứng chỉ hành nghề biên tập viên (đối với biên tập viên lĩnh vực xuất bản).
Theo quy định hiện nay thì cần có Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh biên tập viên hạng I và hạng II riêng biệt.
Tương tự, đối với phóng viên, dự thảo đề xuất: Phóng viên hạng I và II đều có yêu cầu chung là có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành phóng viên.
Theo quy định hiện nay thì cần có Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh phóng viên hạng I và hạng II riêng biệt.
Bộ Thông tin và Truyền thông đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo này.
PHƯƠNG HOA
Đề xuất quy định mới trong thi, xét thăng hạng phóng viên, biên tập viên
6. Trình tự và thủ tục rút tiền bảo hiểm xã hội một lần?
(LSVN) - Tính đến tháng 10/2019, tôi có tham gia đóng bảo hiểm xã hội được 3 năm 9 tháng. Nhưng kể từ khi nghỉ việc và làm hồ sơ lãnh bảo hiểm thất nghiệp 3 tháng, thì tôi không tham gia đóng bảo hiểm ở đâu. Giờ tôi muốn rút bảo hiểm xã hội (BHXH) 1 lần có được không? Trình tự thủ tục theo quy định như thế nào? Bạn đọc K.Q. hỏi.
Về điều kiện hưởng BHXH một lần, theo khoản 1, Điều 1 Nghị quyết số 93/2015/QH13 ngày 22/6/2015 của Quốc Hội quy định về việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động như sau: “Trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sau một năm nghỉ việc, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sau một năm không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội khi có yêu cầu thì được nhận bảo hiểm xã hội một lần”.
Tại điểm b, khoản 1, Điều 8 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ quy định người lao động mà có yêu cầu thì được hưởng BHXH một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 54 của Luật BHXH mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH hoặc theo quy định tại khoản 3 Điều 54 của Luật Bảo hiểm xã hội mà chưa đủ 15 năm đóng BHXH và không tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện;
- Sau một năm nghỉ việc mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH và không tiếp tục đóng BHXH;
- Ra nước ngoài để định cư;
- Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế.
Hiện nay pháp luật không quy định cụ thể về thời hạn rút bảo hiểm xã hội một lần sau khi đủ điều kiện hưởng. Do đó, nếu bạn đã đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật nêu trên, bạn có quyền lựa chọn rút BHXH một lần bất kể thời điểm nào căn cứ vào nhu cầu thực tế của bạn.
Tuy nhiên, việc nhận BHXH một lần sẽ đem đến nhiều thiệt thòi cho người lao động, vì lợi ích trước mắt mà người lao động sẽ bỏ lỡ cơ hội được hưởng lương hưu để trang trải cuộc sống, cũng như được hưởng chế độ bảo hiểm y tế để chăm sóc sức khỏe khi về già. Theo tính toán của cơ quan BHXH, nếu cùng một thời gian đóng BHXH thì tổng lợi ích bằng tiền khi hưởng lương hưu hằng tháng sẽ cao hơn nhiều khi hưởng BHXH một lần. Do đó, cơ quan BHXH khuyến khích người lao động nên bảo lưu thời gian tham gia BHXH thay vì nhận BHXH một lần.
Về hồ sơ hưởng BHXH một lần
Điều 109 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định hồ sơ hưởng BHXH một lần, bao gồm: Bản chính Sổ BHXH và Đơn đề nghị hưởng BHXH một lần.
Vì vậy, bạn căn cứ Điều 109 nêu trên để lập hồ sơ hưởng hồ sơ nhận BHXH một lần theo quy định.
Về thời gian giải quyết hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội một lần
Căn cứ khoản 3 và khoản 4 Điều 110 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định trong thời hạn 30 ngày tính đến thời điểm người lao động đủ điều kiện và có yêu cầu hưởng bảo hiểm xã hội một lần nộp hồ sơ quy định tại Điều 109 của Luật này cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định đối với trường hợp hưởng bảo hiểm xã hội một lần, cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm giải quyết và tổ chức chi trả cho người lao động; trường hợp không giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
HỒNG HẠNH
Quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động
7. Mexico tiến hành trưng cầu ý dân về việc tại nhiệm của Tổng thống
(LSVN) - Ngày 10/4, Mexico tiến hành cuộc trưng cầu ý dân về việc Tổng thống López Obrador sẽ từ chức hay sẽ hoàn thành nhiệm kỳ 6 năm.
![]()
Tổng thống Mexico Andres Manuel Lopez Obrado. Ảnh: AFP/TTXVN.
Theo phóng viên tại Mexico City, gần 93 triệu cử tri Mexico được kêu gọi đi bỏ phiếu về việc có tán thành Tổng thống López Obrador tiếp tục lãnh đạo đất nước cho đến hết nhiệm kỳ vào năm 2024 hay không.
Tổng thống López Obrador thúc đẩy tiến hành cuộc trưng cầu này. Nhà lãnh đạo Mexico kêu gọi người dân tự do quyết định đường lối của đất nước và sẽ coi kết quả của cuộc trưng cầu ý dân như một sự tái khẳng định sự ủng hộ của người dân đối với chính phủ.
Tổng thống Obrador khẳng định kể cả trong trường hợp số cử tri tham gia cuộc trưng cầu không đạt 40% theo quy định của luật pháp, ông cũng sẽ từ chức nếu tỷ lệ người dân ủng hộ thấp.
Theo các kết quả khảo sát mới nhất, tỷ lệ người dân Mexico ủng hộ Tổng thống Obrador hiện ở mức trên 60%.
Viện Bầu cử Quốc gia Mexico sẽ thông báo kết quả kiểm phiếu nhanh vào 22:00 cùng ngày (theo giờ địa phương).
TTXVN
Quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động
8.

