Đặt vấn đề
Khi nói đến luật sư, nhiều người liên tưởng đến hình ảnh của một “thầy cãi”. Phải chăng chính vì nghề phản biện đã tạo dấu ấn mạnh mẽ lên nhận thức của mọi người trong xã hội đối với luật sư và được coi là đặc trưng cơ bản của nghề này? Lục tìm lại lịch sử cho thấy nghề luật sư xuất hiện từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Theo Josh Taylor, ở Hy Lạp cổ đại, “orators” (những nhà hùng biện) thường biện hộ trong những vụ việc của những người bạn của họ, bởi vì tại thời kỳ đó, những người cai trị yêu cầu rằng một cá nhân phải biện hộ cho vụ việc của chính mình hoặc có thể nhờ một công dân bình thường hoặc một người bạn của mình biện hộ cho mình nhân danh mình và không được nhận phí. Tuy nhiên, quy định về không thu phí như vậy là bất khả thi (Josh Taylor nhận định). Ông khẳng định rằng, sau đó ở La Mã cổ đại, Hoàng đế Claudius pháp lý hóa nghề luật và thậm chí cho các luật sư (thầy cãi) thu phí với một hạn mức nhất định(1). Với vai trò là người biện hộ, luật sư đã được xã hội đương thời tôn vinh là các “hiệp sĩ” và với tấm lòng trong sáng, tinh thần nghĩa hiệp, luật sư đã dùng sự hiểu biết về cổ luật và tài hùng biện để bảo vệ nhữngngười nghèo khổ, cô thế trước thế lực cai trị đương thời. Nghề luật sư hiện nay có hai lĩnh vực hành nghề chính, đó là tranh tụng và tư vấn mà khi nói đến tranh tụng tức là nói đến kỹ năng hùng biện của luật sư. Thực tiễn hành nghề luật sư cho thấy kỹ năng hùng biện được xem là một trong hai kỹ năng cơ bản của luật sư và đây chính là yếu tố quan trọng tạo nên uy tín, danh tiếng của luật sư, nhất là luật sư thiên về tranh tụng. Tuy nhiên, không phải ai bẩm sinh cũng có tài hùng biện mà khả năng hùng biện đa phần được tạo nên là do quá trình học hỏi, nhận thức và tự rèn luyện của chính từng luật sư. Khi hùng biện, để thuyết phục được người nghe tốt nhất, luật sư không những cần phải có kiến thức uyên thâm, lý lẽ chặt chẽ, sắc bén, tư duy logic và linh hoạt mà còn cần phải có những kỹ năng bổ trợ khác như kỹ năng phi ngôn từ. Trong phạm vi bài viết này, tác giả trao đổi một số khía cạnh liên quan đến việc sử dụng kỹ năng phi ngôn từ để tăng hiệu quả khi hùng biện của luật sư.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Một số vấn đề liên quan đến hùng biện và phi ngôn từ
Trước khi đi sâu vào luận giải các loại phi ngôn từ ảnh hưởng đếnhiệu quả khi hùng biện và cách sử dụng chúng ra sao để tăng hiệu quả khi hùng biện, chúng ta cần làm rõ một số thuật ngữ liên quan, đó là “hùng biện” và “phi ngôn từ”. Đến nay vẫn khó có thể khẳng định chính xác hùng biện xuất hiện từ khi nào và ở đâu. Một số nghiên cứu chỉ ra hùng biện xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, Calliope (một trong chín cô con gái của Thần vương Zeus và Mnemosyne) được xem là nữ thần thi ca truyền cảm hứng cho các thiên sử thi và khả năng hùng biện. Tài hùng biện có gốc Latin loqu hoặc loc (nói), “hùng biện” là khả năng thấu hiểu và sử dụng ngôn ngữ sao cho tạo ra sức mạnh thuyết phục(2). Hùng biện là nghệ thuật thuyết phục. Đây là một trong ba nghệ thuật diễn ngôn cổ đại (trivium) cùng với ngữ pháp và logic/biệnchứng(3). Aristotle định nghĩa hùng biện là “khả năng quan sát trong bất kỳ trường hợp nào các phương tiện thuyết phục có sẵn”, và việc thành thạo nghệ thuật này là cần thiết để giành chiến thắng trong một vụ kiện, để thông qua các đề xuất trong hội đồng, hoặc để nổi tiếng khi làngười phát biểu trong các nghi lễ dân sự, ông gọi nó là “sự kết hợ pgiữa khoa học logic và nhánh đạo đức của chính trị”(4). Hùng biện là ngôn ngữ được sử dụng để thúc đẩy, truyền cảm hứng, thông tinhoặc thuyết phục người đọc và/hoặc người nghe(5). Hoặc hùng biện lànăng lực sử dụng ngôn từ một cách khoa học để trình bày một chủ đề,luận điểm hay quan điểm cá nhân trước công chúng sao cho thuyết phục hoặc truyền cảm hứng đến người nghe (6). Hay hùng biện là mộtkỹ năng giao tiếp đặc biệt, được sử dụng khi một người cần truyền đạt thông điệp, ý tưởng hay thuyết phục người khác thông qua lời nói(7). Theo TS. LS Liêu Chí Trung thì “hùng biện là khả năng dùng lời nói với lập luận chặt chẽ, cách thức diễn đạt mạnh mẽ kèm theo các biểu hiện phù hợp của cơ thể nhằm thuyết phục người nghe, làm cho họ hiểu và tin tưởng để có định hướng, sẵn sàng hành động theo ý đồ của người nói”(8). Các kết quả nghiên cứu cho thấy đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về hùng biện được đưa ra ở cả bình diện quốc tế và trong nước, mỗi khái niệm đã phản ánh được một hoặc một số đặc điểm cơ bản của hùng biện. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là do cách tiếp cận, quan điểm, nhận thức, tư duy khoa học của các học giả khác nhau. Như vậy, có thể hiểu chung nhất thì hùng biện là nghệ thuật thuyết phục người nghe, được người hùng biện sử dụng để truyền đạt thông điệp, ý tưởng đến người nghe thông qua lời nói, cử chỉ, hành vi (ngôn từ và phi ngôn từ). Liên quan đến thuật ngữ phi ngôn từ(9), cho đến nay, đã có khá nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này và thuật ngữ phi ngôn từ chủ yếu được các học giả nghiên cứu, đánh giá dưới góc độ giao tiếp. Thuật ngữ giao tiếp phi ngôn ngữ (tiếng Anh: nonverbalcommunication) được đưa ra vào năm 1956 bởi bác sĩ tâm thần JurgenRuesch và tác giả Weldon Keestrong cuốn sách “Giao tiếp phi ngôn ngữ: Ghi chú về nhận thức thị giác của mối quan hệ con người”. Giao tiếp phi ngôn ngữ có nghĩa là truyền đạt thông tin mà không sử dụng từ ngữ (10). Giao tiếp phi ngôn ngữ là việc truyền tải thông điệp hoặc tín hiệu thông qua một nền tảng phi ngôn ngữ như giao tiếp bằng mắt (oculesics), ngôn ngữ cơ thể (kinesics), khoảng cách xã hội (proxemics), chạm (haptics), giọng nói (ngữ điệu và paralanguage), môi trường vật lý/ngoại hình và sử dụng các đồ vật(11). Giao tiếp phi ngôn ngữ giữa con người là sự giao tiếp bằng cách gửi và nhận những tín hiệu phi ngôn ngữ(12)...Như vậy, có thể hiểu chung nhất thì phi ngôn từ là việc truyền đạt thông điệp, ý tưởng từ người nàyđến người khác mà không sử dụng ngôn ngữ.
Để có thể hiểu khái niệm phi ngôntừ rõ hơn trong hùng biện, chúng ta cần so sánh với khái niệm ngôn từ. Ngôn từ (tiếng Anh “language”) là danh từ chỉ hệ thống các từ ngữ, ký hiệu và quy tắc được sử dụng để giao tiếp trong một cộng đồng nhấ tđịnh. Nó không chỉ đơn thuần là tập hợp các từ mà còn bao gồm ngữ pháp, cú pháp và các yếu tố văn hóa liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp(13). Ngôn từ là đơn vị cơ bản nhất của ngôn ngữđược sử dụng để biểu đạt ý nghĩa và thông tin. Từ ngữ có thể được tạothành từ các âm thanh (ngữ âm),chữ viết (chữ viết) hoặc các ký hiệu (ngôn ngữ ký hiệu) được sử dụngđể biểu đạt các khái niệm, tình cảm,hành động, sự vật và hiện tượng(14).Trong hùng biện, ngôn từ được hiểu là nội dung bài hùng biện được người hùng biện nói ra hoặc viết ra. Phi ngôn từ cấu thành từ hai yếu tố cơ bản là giọng nói (bao gồm những yếu tố như: ngữ điệu, chất giọng, tốc độ nói...) và hình ảnh (bao gồm những gì mà người khác nhìn thấy như: nét mặt, dáng điệu, ánh mắt...) khi người đó hùng biện. Do đó, phi ngôn từ luôn luôn tồn tại, cho dù chúng ta có nói hay không thì người khác vẫn ghi nhận được thông tin qua hình ảnh của người hùng biện tác động đến người nghe, thông qua tư thế, cách sử dụng tay,... Hơn thế nữa, phi ngôn từ còn có giá trị truyền đạt thông tin rất hiệu quả, ví dụ: hai người câm vẫn có thể giao tiếp với nhau bằng tay; trẻ con chưa biết nói, chưa biết đọc, chưa biết viết vẫn có thể cảm nhận được những gì người khác muốn truyền đạt như thông qua việc một người chỉ cần vẫy tay là đứa trẻ có thể chạy đến bên người đó...Một số nhà nghiên cứu chỉ ra rằng tỉ lệ giao tiếp phi ngôn từ cao gấp bốn lần so với giao tiếp bằng lờinói, với 80% những gì chúng ta giaotiếp liên quan đến hành động và cửchỉ so với chỉ 20% được truyền đạtbằng lời nói(15). Giao tiếp phi ngôn từđã được công nhận trong nhiều thếkỷ như một khía cạnh quan trọngcủa giao tiếp(16). Phi ngôn từ có vai trò rất quan trọng bởi cả cơ thể chúng ta là một thể thống nhất, dáng chững chạc thì giọng nói cũng chững chạc, dáng lỏng lẻo thì giọng cũng lỏng lẻo, tay vung mạnh thì giọng nói cũng mạnh mẽ... Vì vậy, phi ngôn từ được hiểu là giọng nói,hành vi và cử chỉ được thể hiện trêncơ thể người nói khi người đó ở cảhai trạng thái là nói hoặc không nói.Phi ngôn từ có vai trò rất quantrọng trong việc nâng cao hiệu quảkhi hùng biện của luật sư và đây làyếu tố bổ trợ cho ngôn từ. Vì vậy, để có thể trở thành một luật sư có tầm, nhất là trong lĩnh vực tranh tụng thìviệc hiểu và biết vận dụng linh hoạt các kỹ năng phi ngôn từ có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả hùng biện của luật sư.
Các loại phi ngôn từ sử dụngtrong hùng biện
Vẻ bề ngoài
Vẻ bề ngoài của người hùng biện luôn là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến người nghe, nó có thể tạo thiện cảm hoặc ngược lại ngay từ những giây phút đầu tiên mà người nghe nhìn thấy người đó. Việc lựa chọn kiểu quần áo, màu sắc, kiểu tóc và các yếu tố khác liên quan ảnh hưởng đến ngoại hình được coi là một phương tiện giao tiếp phi ngôn từ của người hùng biện. Thực tiễn cho thấy, vẻ bề ngoài luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc tác động đến người nghe để họ có hứng thú nghe người hùng biện hay không. Xét ở khía cạnh văn hóa, việc người hùng biện mặc quần, áo sạch sẽ, lịch sự, đúng tác phong, tóc gọn gàng... chính là việc thể hiện người đó có văn hóa, tôn trọng người nghe. Vì vậy, để có thể nâng cao hiệu quả khi hùng biện thì luật sư cần chú ý đến vẻ bề ngoài, phải luôn chỉn chu các yếu tố liên quan đến vẻ bề ngoài như: quần, áo, tóc, tác phong...
Ngữ điệu
Thực tiễn cho thấy, ngoài việclắng nghe nội dung bài hùng biện của luật sư thì người nghe còn chú ý đến âm lượng, âm sắc, phát âm, tốc độ... mà luật sư sử dụng để truyền đạt thông tin bởi ngữ điệu phản ánh nhiều đặc điểm của người hùng biện. Thông qua ngữ điệu, nếu tinh ý, người nghe có thể nhận biết được giới tính, tuổi, trình độ học vấn, tâm trạng, sức khỏe...của người hùng biện. Vì vậy, để cóthể nâng cao hiệu quả khi hùng biện, luật sư cần chú ý những điểm sau đây: Âm lượng: Giọng nói của luật sư cần vừa đủ để người nghe có thểtiếp nhận được thông tin. Luật sư nói quá to, có thể làm cho người nghe cảm thấy đau đầu, nói nhỏ quá có thể làm cho người nghe mệt mỏi khi phải “căng óc” ra để ghi nhận các thông tin từ luật sư. Giọng nói dù to hay nhỏ đều phải có khí lực, có sự chân thành mới có tính thuyết phục. Khi hùng biện, tùy thuộc vào nội dung bài hùng biện mà âm lượng của luật sư cần có độ cao thấp, trầm bổng. Không nên nói đềuđều, làm cho người nghe buồn ngủ, không tập trung cho dù vấn đề luật sư nói quan trọng đến đâu. Nên nhấn mạnh những vấn đề quan trọng bằng cách tăng âm lượng hoặc thậm chí là nhắc lại. Âm sắc: Khi hùng biện, luật sư cần nhắc, nhấn, tăng âm sắc của giọng nói đối với những ý quan trọng của bài hùng biện bởi khi đượcnói bằng một giọng mạnh mẽ, ngườinghe có thể hiểu được mức độ quantâm của luật sư với nội dung mìnhđang diễn thuyết; ngược lại, cùngnội dung đó, nhưng luật sư nói với giọng ngập ngừng, có thể thể hiện sự không đồng tình, thiếu quan tâmcủa luật sư đối với vấn đề đó.
Phát âm
Ấm vực phải chuẩn, tròn vành, rõ chữ, không méo tiếng hay nuốt chữ, không nhầm lẫn giữa cá câm. Tránh mắc phải một số tật như nói lắp, nói ngọng. Nguyên nhân củanhững tật này có thể do bệnh tật, thói quen, bẩm sinh, ảnh hưởng của vùng miền... Đây chính là những tật khó chữa và chính điều này có thể giảm sút uy tín của luật sư khi hùng biện. Tuy nhiên, nếu có sự rèn luyện kiên trì qua thời gian thì các tật nêu trên có thể khắc phục được.
Tốc độ
Khi hùng biện, luật sư cần phải quan sát nét mặt, thái độ củangười nghe để từ đó điều chỉnh tốcđộ nói cho phù hợp. Trong trường hợp đối tượng nghe là người cao tuổi, luật sư cần nói chậm; đối với thanh niên, luật sư cần nói hào hứng, sôi nổi. Thông thường, tốc độ nói bị điều chỉnh bởi tâm lý của người nói, thông qua tốc độ nói,người nghe có thể biết được tâmtrạng của người nói. Một người nói nhanh thường là biểu hiện của sựthiếu tự tin. Khi nói, cuối mỗi đoạn văn, luật sư cần dừng một thời gian ngắn trước khi tiếp theo đoạn mới.Ánh mắtAdam Anderson, Giáo sư về phát triển con người tại Đại học Cornell, Mỹ chỉ ra rằng, chúng tanhận biết cảm xúc của người khácbằng cách phân tích những biểuhiện trong mắt của họ. “Khi nhìnvào khuôn mặt, đôi mắt chiếm ưuthế trong giao tiếp tình cảm. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn do chúng là bộ phận tiếp nhận ánh sáng đầu tiên của hệ thống thị giác. Những thay đổi cảm xúc nhỏ xung quanh mắt ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìnthấy, và điều này truyền đạt cho người khác về những gì chúng ta đang nghĩ và cảm nhận”(17). Trên thực tế, đôi mắt cung cấp rất nhiều thông tin về trạng thái cảm xúc của người khác (18). Đôi mắt sẽ cho bạn biết một người đang cảm thấy thế nào, hoặc thậm chí họ có thể đang nghĩ gì. Hầu hết biểu hiện cảm xúc của chúng ta đều nằm ở nét mặt, đặc biệt là xung quanh mắt (và trong ngôn ngữ cơ thể nói chung). Mọi người có thể nhìn vào mắt ai đó và biết ngay họ đang cảm thấy thế nào và liệu họ có đang nói dối hay không(19).Đôi mắt đóng vai trò rất quan trọng trong giao tiếp phi ngôn từ nên những hành vi như: nhìn, nhìn chằm chằm, nhìn chớp mắt... là những hành vi phi ngôn từ rất quan trọng. Khi một người gặp người khác hoặc vật nào đó mà họ cảm thấy hứng thú thì tỉ lệ chớp mắt sẽ tăng lên và đồng tử giãn ra. Thông qua việc phân tích ánh mắt mà một người nào đó nhìn vào một hoặc nhiều người khác thì có thể chỉ ra một loạt các cảm xúc như: thân thiện, thù địch, quan tâm, hấp dẫn...Thực tiễn cho thấy, ánh mắt biểu thị rất nhiều cảm xúc, suy nghĩ củangười hùng biện. Trong hùng biện, ánh mắt của người hùng biện ảnhhưởng lớn tới tâm trạng, thái độ củangười nghe. Ánh mắt có thể khích lệ người khác, trấn áp người khác, tạo niềm tin cho người khác...Vì vậy, khi hùng biện, luật sư phải luôn để ý đến biểu hiện của người nghe về các vấn đề như họ có chú ý lắng nghe hay đang thờ ơ, chán nản... để từ đó cần có sự điều chỉnh chủ đề, âm lượng, ngữ điệu...phù hợp, thậm chí là chuyển chủ đềhoặc sớm kết thúc bài hùng biện.
Khi hùng biện, để thu hút được sự lắng nghe của mọi người thì luật sư không chỉ nhìn một người mà ánh mắt của luật sư phải hướng về phía nhiều người, có như vậy thì tất cả người nghe đều cảm thấy luật sưđang dành sự quan tâm, tôn trọng mình cũng như từ đó luật sư mới cảm nhận được chính xác phản ứng của người nghe đối với bài hùng biện của mình. Để tăng tính thuyết phục, ánh mắt của luật sư khi hùngbiện phải tự nhiên, nghiêm túc thểhiện phù hợp với ngôn từ biện luận.Luật sư nên tránh đảo mắt quán hanh, mắt long sòng sọc, liếc ngang, liếc dọc..., điều này sẽ gâyhiểu lầm là luật sư không trung thực, không đàng hoàng thậm chí là tráo trở, thủ đoạn...
Biểu cảm khuôn mặt
Biểu cảm khuôn mặt là chuyển động và vị trí của các cơ bên dưới da mặt. Những chuyển động này truyền đạt trạng thái cảm xúc của một cá nhân đến người quan sát và là một hình thức giao tiếp phi ngôn ngữ(20).
Thực tiễn cho thấy vẻ mặt của một người thường là thứ đầu tiên mà người nghe nhìn thấy và cảm nhận, thậm chí là trước cả khi người nghe tiếp nhận các thông tin khi họ nói. Cho dù việc giao tiếp và sử dụng hành vi phi ngôn từ có thể có sự khác nhau đáng kể do sự khác biệt văn hóa, giới tính... nhưng các biểu hiện trên khuôn mặt luôn cho thấyngười nói vui, tức giận, buồn, sợ hãi... bởi đó là biểu cảm phổ quát giữa các nền văn hóa.Vì vậy, khi hùng biện, nét mặt của luật sư cần phải có sự biểu cảm phù hợp với nội dung bài biện luận và khuôn mặt của luật sư cần thể hiện được nhiều cảm xúc khác nhau. Trong cùng một buổi hùng biện, luật sư không chỉ thể hiện mộtchất giọng hay một nét mặt duynhất, với nội dung diễn đạt khácnhau sự biểu cảm của khuôn mặtcũng cần khác nhau để tăng tínhthuyết phục của luật sư đối với thông tin truyền tải. Thông thường, luật sư cần giữ một vẻ mặt nghiêm túc, nhưng khi luật sư chia sẻ sự mấtmát với người thân của bị hại thì nétmặt của luật sư phải thể hiện sự cảmthông. Khi hùng biện, nét mặt củaluật sư không nên căng thẳng, bởimặt căng thẳng thì nói sẽ căngthẳng, nét mặt thoải mái tự nhiên thìgiọng nói sẽ tự nhiên...Ngôn ngữ cơ thể và tư thếNgôn ngữ cơ thể (body language)và tư thế là một trong những yếu tốcủa phi ngôn từ và nó có vai trò quantrọng trong việc nâng cao hiệu quảkhi giao tiếp. Sự chuyển động của tưthế luôn truyền tải một lượng lớnthông tin trong quá trình giao tiếp vànói cũng chỉ ra cảm xúc và thái độcủa các bên. Các học giả trên thế giớiđã nghiên cứu về ngôn ngữ cơ thể từrất sớm nhưng các nghiên cứu nàymới chỉ thực sự phát triển mạnh từnhững năm 1970 với việc các phương tiện truyền thông đại chúngđã tập trung vào việc giải thích quámức các tư thế phòng thủ, khoanhtay và bắt chéo chân, đặc biệt là saukhi cuốn sách “Ngôn ngữ cơ thể” củaJulius Fast được xuất bản(21).Ngôn ngữ cơ thể và tư thế là hình ảnh đầu tiên mà người nghe đểý và đánh giá đối với một luật sư khi luật sư đó thực hiện bài hùng biện. Dáng điệu chững chạc, đàng hoàng sẽ tạo nên sự kính trọng từ người nghe.
Còn ngược lại sẽ gây ác cảm.Dáng đứng là một loại ngôn ngữ của cơ thể, khi luật sư nói hào hứng, sôi nổi, thuyết phục người khác thì dáng đứng phải vững chãi. Do đó, khi hùng biện, luật sư không nên đứng yên một chỗ, đứng như tượngmà dáng đứng cần phải uyểnchuyển, linh hoạt theo vấn đề mà luật sư trình bày. Luật sư có thể đứng ngay ngắn, đầu hơi hướng về phía người nghe và nhìn thẳng về phía người đối diện hoặc có thể đứng nghiêng một góc nhỏ so với đối tượng mà luật sư hướng tới. Luật sư dù đứng như thế nào thì luôn luôn phải thể hiện tính nghiêm túc, tự tin và thân thiện với người nghe. Khi đứng hùng biện, luật sưkhông nên tựa vào bàn. Bởi lẽ, khicon người ở trong trạng thái yếuđuối, sợ hãi thì thường có xu hướngmuốn tìm một cái gì đó để dựa vào.Trong trường hợp này, người nghedễ dàng nhận ra luật sư đang mấtbình tĩnh, thiếu tự tin. Mặt khác, luật sư không nên “đứng như chôn chân một chỗ” bởi khi đứng như vậy, cả hai chân luật sư đều làm trụ thì dễ mỏi nên luật sư cần chuyển đổi chân để được thoải mái nhưngkhông nên chân đứng, chân co hay rung chân. Tại các kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy, lượng thông tin được thunhận qua mắt là 75%, qua tai là 12%,lượng dây thần kinh từ mắt lên nãonhiều gấp 25 lần lượng dây thần kinh từ tai lên não. Do đó, người nghe dễ bị thuyết phục và tập trunghơn khi có nhiều hình ảnh minh họa, dẫn chứng cụ thể. Đặc biệt, người nghe dễ bị thu hút bởi hình ảnh động hơn lời nói. Trong hùng biện, nếu luật sư biết cách sử dụng ngữđiệu của tay hợp lý thì đôi bàn tay sẽ là công cụ hỗ trợ tích cực cho lời nói. Luật sư nên sử dụng đôi bàn tay để minh họa cho những điều cần nói, dùng để biểu đạt cảm xúc của mình. Một trong các nguyên tắc quan trọng khi hùng biện cũng nhưthuyết trình là luật sư phải luôn để tay trong khoảng từ trên thắt lưngtới dưới cằm, đưa tay từ trong rangoài và từ dưới lên. Làm như vậy, việc sử dụng tay sẽ đem lại cảm giác thoải mái, tự nhiên mà không bị gò bó, đè nén. Khi hùng biện, luật sư có thể vung tay, mổ các ngón tay, giơ ngón tay để biểu thị các con số, tay đưa lên để biểu thị sự thay đổi hay phát triển, tay đưa ra biểu thị vấn đềảnh hưởng tới nhiều người... Việc luật sư sử dụng đôi bàn tay như thế nào là phụ thuộc vào thói quen của luật sư nhưng mỗi biểu thị tay đều mang những ý nghĩa khác nhau, biểu hiện được sự chủ động, tự tin và tăng tính hấp dẫn của ngôn ngữ nói. Sử dụng phi ngôn từ tay giúp luật sư diễn tả cảm xúc nội tâm một cách chân thật, dễ dàng, giúp điều tiết giọng nói được rõ ràng, gãy gọn ý. Nếu luật sư không hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của đôi bàn tay trong hùng biện thì các động tác tay của luật sư sẽ tạo ra hình ảnh không tốt đối với người nghe. Khi hùng biện, luật sư không nên để tay thừa thãi, không biết giấu tay vào đâu. Nên tránh những cử chỉ tay như sau trong khi hùng biện: khoanh tay (một người khoanh tay nghĩa là họ chưa cởi mở, đang dò xét); cho tay vào túi quần (mang cảm giác kênh kiệu, khó hòa nhập); trỏ tay (không ai muốn bị người khác trỏ tay vào mặt mình); cử chỉ tay tùy hứng (cử chỉ không phù hợpvới nội dung nói)... Không gian cá nhân Không gian cá nhân là một trong những yếu tố của phi ngôn từ và nó có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả khi giao tiếp nói chung và khi hùng biện nói riêng.Các nghiên cứu cho thấy khoảng cách cá nhân thường bị ảnh hưởngbởi các yếu tố như: chuẩn mực văn hóa, xã hội; các đặc điểm về tính cách; các yếu tố về tình huống cũngnhư mức độ quen thuộc giữa nhữngngười giao tiếp với nhau. Thông thường, khoảng cách giao tiếp(không gian cá nhân) cần duy trì khi trò chuyện giữa những người bình thường với nhau dao động trong khoảng từ 45cm đến 1.200cm. Trongtrường hợp nói chuyện với một đám đông, không gian cá nhân nên duy trì trong khoảng 03m đến 3,5m. Vìvậy, để đạt hiệu quả cao trong quátrình hùng biện, luật sư cần linh hoạt điều chỉnh không gian cá nhân cho phù hợp, việc điều chỉnh này cần dựa vào các yếu tố như: nội dung của bài hùng biện; đối tượng người nghe là ai; nơi thực hiện hùng biện ở đâu; mức độ ánh sáng tại nơi hùng biện như thế nào...
Giao tiếp qua xúc giác
Xúc giác là một trong những yếutố của phi ngôn từ. Vì vậy, để tăng tính thuyết phục đối với các thông điệp mà luật sư muốn truyền tải khi hùng biện thì luật sư cần phải biết sử dụng linh hoạt các hành động cụ thể như: bắt tay, ôm ấm áp, hay vỗnhẹ vào vai người nghe... Thực tiễn cho thấy, những người có địa vị cao trong xã hội thường có xu hướng tác động đến không gian cá nhân của người khác với tần suất và cường độ lớn hơn những người có địa vị thấp hơn.
Các nghiên cứu cho thấy, sự khác biệt về giới tính là một trongnhững yếu tố dẫn đến việc mỗi luật sư lại có cách sử dụng xúc giác khác nhau để truyền đạt thông điệp trongkhi hùng biện. Nữ luật sư thường có xu hướng sử dụng sự đụng chạm để thể hiện sự quan tâm, đồng cảm,gần gũi... Ví dụ: Khi trình bày xong bài hùng biện, luật sư nữ thường ôm người thân, đồng nghiệp, người nghe... Trong khi đó, luật sư nam thường có xu hướng sử dụng xúcgiác để khẳng định vị trí, quyền lực hoặc kiểm soát người khác... Ví dụ: Khi trình bày xong bài hùng biện,luật sư nam thường bắt tay người thân, đồng nghiệp, người nghe,... Vì vậy, việc sử dụng xúc giác một cách linh hoạt, phù hợp với từng đốitượng, từng hoàn cảnh cụ thể khihùng biện có vai trò rất quan trọngtrong việc nâng cao hiệu quả hùng biện của luật sư.
Kết luận
Sử dụng kỹ năng phi ngôn từ để tăng hiệu quả khi hùng biện là một trong những kỹ năng cơ bản của luật sư, nhất là đối với những luật sư thiên về tranh tụng. Vì vậy, việc hiểu đúng và đầy đủ các vấn đề liên quan đến phi ngôn từ và biết cách sử dụng linh hoạt các kỹ năng phi ngôn từ khi hùng biện là một trong những yếu tố quan trọng làm nên danh tiếng của luật sư. Do đó, để có thể trở thành một luật sư có tâm, có tầm, nhất là trong lĩnh vực tranh tụng thì mỗi luật sư phải luôn tự trau dồi kiến thức, tích lũy kỹ năng, kinh nghiệm và không ngừng rèn rũa qua thực tiễnthì mới có thể đúc rút và hoàn hiện được kỹ năng hùng biện.
1. Josh Taylor (2018), A Brief Guide to the History of Lawyers, https://www.smokeball.com/blog/brief-guide-to-the-history-of-lawyers/, accessed date February 27, 2025.
2. From WikipediA, Hùng biện, https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B9ng_bi%E1%BB % 87n, ngày 21/02/2025.
3. Aristotle. "I.2", Rhetoric, Archived from the original on 15 April 2012, accessed February 10, 2025.
4 From WikipediA, Rhetoric, https://en.wikipedia.org/wiki/Rhetoric, accessed date February 17, 2025.
5. Lindsay Kramer, What is Rhetoric: Meaning & History of Persuasive Communication, https://www.grammarly.com/blog/rhetor-icaldevices/rhetoric/#:~:text=Rhetoric%20is%20language%20used%20to,when%20used%20in%20this%20manner., accessed
date March 02, 2025.
6. Smartcom English, Hùng biện là gì? 6+ cách để cải thiện kỹ năng hùng biện, https://www.smartcom.vn/hung-bien-lagi/#:~:text=H%C3%B9ng%20bi%E1%BB%87n%20l%C3%A0a%20n%C4%83ng%20l%E1%BB%B1c,di%E1%BB%85n%20thu
y%E1%BA%BFt%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc%20c%C3%B4ng%20ch%C3%Bang, ngày 12/3/2025.
7. Phạm Thị Mỹ Anh, Hùng biện là gì? Các yếu tố quan trọng trong hùng biện và cách rèn luyện kỹ năng này hiệu quả,https://fptshop.com.vn/tin-tuc/danh-gia/hung-bien-la-gi-163356, ngày 13/02/2025.
8. Liêu Chí Trung, Phương pháp hùng biện, Nxb Lao động, Hà Nội, 2022, tr. 32.
9. Hiện nay, một số học giả sử dụng thuật ngữ “phi ngôn ngữ” và một số học giả khác thì sử dụng thuật ngữ “phi ngôn từ”.Trong bài viết này, tác giả thống nhất sử dụng thuật ngữ “phi ngôn từ”.
10. American Psychological Association, Nonverbal communication (NVC), https://dictionary.apa.org/nonverbal-communication,accessed date February 12, 2025.
11. Hall, Judith A.; Horgan, Terrence G.; Murphy, Nora A. (4 January 2019), “Nonverbal Communication”. Annual Reviewof Psychology. 70 (1): 271-294. doi:10.1146/annurev-psych-010418-103145. ISSN 0066-4308. PMID 3025672 0. S2CID 52841730.
12. FromWikipediA,Giao tiếp phi ngôn ngữ,https://vi.wikipedia.org/wiki/Giao_ti% E1%BA%BFp_phi_ng%C3%B4n_ng%E1%BB%AF,ngày 23/02/2025.
13. Blog Từ điển, Ngôn từ, https://tudientiengviet.org/ngon-tu/, ngày 14/3/2025.
14. M.Y.C Việt Nam, Ngôn từlà gì? Cách nâng cao sức mạnh ngôn từhiệuquả, https://mycvietnam.vn/ngon-tu-la-gi/, ngày 08/3/2025.
15. Viện Tâm lý Việt-Pháp, Giao tiếp phi ngôn ngữ là gì?, https://tamlyvietphap.vn/ giao-tiep-phi-ngon-ngu-la-gi/, ngày 19/3/2025.
17. Lê Hùng, Nghiên cứu chứng minh đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, https://vnexpress.net/nghien-cuu-chung-minh-doi-mat-la-cua-so-tam-hon-3573886. html, ngày 26/02/2025.
18. David Ludden, Your eyes really are the window to your soul, https://www.psychologytoday.com/us/blog/talking-apes/201512/your-eyes-really-are-the-windo w-to-your-soul, accessed February 15, 2025.
19. Richard Barker, The Eyes are the Windows to the Soul: Meaning, Origin and Usage, https://www.thehistoryofenglish.com/the-eyes-are-the-windows-to-the-soul, accessed date March 10, 2025.
20. From WikipediA, Facial expression, https://en.wikipedia.org/wiki/Facial_expressi on, accessed date February 19, 2025.
21. Nguyễn Duy Tuấn, Bài 5: Thực hành Tiếng Việt trang 89, https://voh.com.vn/hoc-tap/ly-thuyet-sgk-kntt-ngu-van-10-thuc-hanh-tieng-viet-trang-89.5509.634.287, ngày 13/3/2025.
TS.LS NGÔ VĂN HIỆP - NGÔ MẠNH TÙNG
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

