/ Kinh nghiệm - Thực tiễn
/ Thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các vụ kiện phát sinh từ vận đơn

Thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các vụ kiện phát sinh từ vận đơn

10/09/2021 07:33 |

(LSVN) - Việc xác định thẩm quyền xét xử vụ kiện có yếu tố nước ngoài khác hẳn với việc xác định hệ thống pháp luật được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Một mặt phải dựa vào các quy định được pháp luật trong nước hoặc điều ước quốc tế liên quan quy định để quyết định thẩm quyền xét xử của mình. Mặt khác phải căn cứ vào các hệ thuộc của quy phạm xung đột pháp luật để tìm ra hệ thống luật của nước có liên quan để áp dụng. Việc xác định thẩm quyền xét xử là hành vi tố tụng luôn được thực hiện trước khi giải quyết xung đột pháp luật.

Ảnh minh họa.

Hiện nay do đội tàu của Việt Nam còn nhỏ và tuổi già nên đại bộ phận hàng nhập khẩu của nước ta đều theo điều kiện CFR hoặc CIF Incoterrms, nghĩa là, ngoài tiền hàng, người bán ở nước ngoài còn ký kết hợp đồng lo liệu tất cả mọi chi phí về vận tải và/hoặc phí bảo hiểm hàng hóa cho đến khi hàng về tới cảng Việt Nam.

Đầu năm 2020 vừa qua, doanh nghiệp A ở thành phố Hồ Chí Minh mua 1.000 tấn thép cuộn không rỉ, trị giá 180.000 USD, để làm vỏ đồ hộp thực phẩm xuất khẩu từ người bán B ở EU theo điều kiện CFR Incoterms 2010 cảng thành phố Hồ Chí Minh. Vận đơn (Bill of Lading) của lô hàng - bằng chứng của hợp đồng vận chuyển giữa người bán B và chủ tàu cũng ở EU ghi rõ tiền cước lô hàng đã được trả trước 100% (Freight Prepaid). Theo thông lệ quốc tế và quy định tại Điều 148 Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015, chứng từ này là cơ sở pháp lý quan trọng để xác lập quyền sở hữu và định đoạt hàng hóa của người mua phía Việt Nam sau khi hợp đồng mua bán hoàn tất. Ngay sau khi tàu cập cảng, người mua phía Việt Nam đã hoàn tất mọi thủ tục hải quan để nhận hàng, tuy vậy, thuyền trưởng thay mặt chủ tàu tuyên bố mặc dầu vận đơn ghi tiền cước đã được trả trước nhưng thực tế, do tình hình dịch bệnh Covid-19 lan tràn ở EU đầu năm 2020, người bán gặp khó khăn về tài chính nên mới chỉ trả được 50%. Vì vậy chủ tàu yêu cầu người mua phía Việt Nam, nếu muốn nhận hàng, phải trả nốt 50% tiền cước còn lại.

Luật sư của người mua phía Việt Nam cực lực phản đối yêu cầu vô lý này của chủ tàu vì thực tế phía Việt Nam đã mua hàng theo điều kiện CFR - nghĩa là tiền cước vận chuyển do người bán chi trả. Nếu chủ tàu không chịu giao trả hàng thì sẽ yêu cầu tòa án Việt Nam sai áp bắt giữ tàu và khởi kiện chủ tàu tại tòa án Việt Nam đòi bồi thường mọi thiệt hại xảy ra. Tuy vậy, chủ tàu lập luận theo điều khoản tài phán (Jurisdiction Clause) ghi trong vận đơn, nếu có tranh chấp xảy ra thì phải xét xử tại tòa án ở EU, nơi họ có trụ sở chính và luật của EU sẽ được áp dụng. Không còn lựa chọn nào khác, Luật sư của người mua phía Việt Nam đã xúc tiến mọi thủ tục cần thiết xin Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra lệnh bắt giữ tàu. Sau khi tham vấn Luật sư tư vấn của mình ở EU, cuối cùng chủ tàu cũng đành xuống thang và giao trả hàng đầy đủ cho người mua phía Việt Nam.

Thực tiễn luật pháp thương mại hàng hải của nhiều nước trên thế giới đều không coi vận đơn là hợp đồng mà chỉ là bằng chứng về việc người vận chuyển đã tiếp nhận bốc lên tàu số lượng hàng như mô tả trên đó để chở tới cảng đích (Điều 3, Quy tắc IV Công ước Brussel 1924 và Điều 148, khoản 2, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015). Hơn thế nữa, các quy định trong vận đơn thường là đơn phương mang tính áp đặt một chiều. Vận đơn là một chứng từ thương mại hàng hải cổ điển ra đời từ thế kỷ 15-16 khi mà các thế lực chủ tàu ở châu Âu làm mưa làm gió trên thị trường hàng hải quốc tế.

Dưới nhiều góc độ khác nhau, vận đơn là chứng từ che chắn cho chủ tàu nhiều hơn là chủ hàng. Mục đích của điều khoản tài phán ghi trong vận đơn là để đơn phương độc quyền giành quyền xét xử cho tòa án nước mà chủ tàu có trụ sở chính và gạt bỏ thẩm quyền của tòa án nơi hàng đến, mà lẽ ra theo luật pháp tại đó, họ cũng có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp pháp sinh từ vận đơn.

Nói chung luật pháp của nhiều nước, kể cả những nước có chế định luật thương mại hàng hải lâu đời như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật và Úc cũng cho rằng cách quy định đơn phương như vậy là trái với trật tự công cộng và trở nên vô hiệu, rằng quy định như vậy làm phương hại tới quyền lợi chính đáng của người nhận hàng ở cảng đích mà phần lớn các trường hợp họ không phải là một bên trực tiếp giao dịch ký kết hợp đồng thuê tàu với người vận chuyển, đặc biệt là trường hợp họ mua hàng theo điều kiện CIF hoặc CFR.

Trong thực tiễn luật hàng hải Anh, vụ kiện nổi tiếng “EL AMRIA” năm 1979 đã minh chứng cho các lập luận trên. Trong vụ kiện này, một tàu Ai Cập chở lô hàng khoai tây từ Ai Cập đến cảng Liverpool Vương Quốc Anh bị giảm phẩm chất nặng. Giám định viên, do người nhận hàng tại cảng Liverpool chỉ định, xác nhận nguyên nhân hàng bị hư hỏng biến chất là do chất xếp không đúng quy cách trên tàu và do việc dỡ hàng chậm chạp. Sau khi bị chủ tàu từ chối bồi thường tổn thất, người nhận hàng ở Liverpool đã kiện chủ tàu Ai Cập ra tòa án Anh. Chủ tàu đề nghị tòa án Anh bãi nại vụ kiện và đưa về Ai Cập để xét xử vì họ lập luận trong vận đơn có điều khoản tài phán quy định tranh chấp nếu có phải được giải quyết tại Ai Cập, tuân thủ theo luật Ai Cập nơi chủ tàu có trụ sở kinh doanh chính.

Chánh án Sheen J, của tòa án Anh - Chủ tọa phiên tòa, đã thẳng thừng bác bỏ lập luận của chủ tàu và cho rằng tòa án Anh hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết vụ kiện vì hư hỏng và biến chất của lô hàng xảy ra trong quá trình dỡ hàng ở cảng Liverpool, Vương quốc Anh, không liên quan gì đến Ai Cập. Những tình tiết của vụ kiện chủ yếu xảy ra tại Vương quốc Anh và người nhận hàng là người Anh đã khởi kiện trước tòa án Anh, vì vậy tòa án Ai Cập khó có thể có bằng chứng kỹ thuật về quá trình dỡ hàng tại Liverpool Vương quốc Anh. Ngoài ra, Chánh án Sheen J còn cho rằng nếu xét xử tại Ai Cập, các bên khó lòng tiến hành việc giám định, điều tra các khía cạnh liên quan tới nới xảy ra vụ việc, hơn thế nữa, điều khoản tài phán trong vận đơn của chủ tàu Ai Cập là đơn phương một chiều, không lưu ý thỏa đáng tới luật pháp hiện hành của bất cứ nước nào khác ngoài Ai Cập cho phép nguyên đơn (chủ hàng Anh) có quyền khởi kiện trước tòa án Anh.

Trong một vụ kiện khác có tên là “FEHMARN” ở một tòa phúc thẩm Vương quốc Anh, một thẩm phán khác cũng cho rằng việc chọn luật không thể đơn phương một chiều như quy định trong vận đơn và tòa án Vương quốc Anh có quyền quyết định áp dụng luật của nước có liên quan nhiều nhất tới vụ việc để xem xét giải quyết vụ kiện.

Nhìn chung, khi thụ lý một vụ kiện dân sự thương mại hàng hải có yếu tố nước ngoài tại tòa án Việt Nam, một trong những cơ sở pháp lý để tòa án Việt Nam xác định thẩm quyền xét xử của mình là phải xem xét bên nào đã thực thi quyền lực thực tế để khởi kiện (ví dụ: bên nào đã xin bắt giữ tàu), hoặc nơi mà tài sản đang tranh chấp ở Việt Nam hay nước khác và nơi xảy ra hư hỏng, tổn thất tài sản ở đâu…

Cần lưu ý rằng việc xác định thẩm quyền xét xử vụ kiện có yếu tố nước ngoài khác hẳn với việc xác định hệ thống pháp luật được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Một mặt phải dựa vào các quy định được pháp luật trong nước hoặc điều ước quốc tế liên quan quy định để quyết định thẩm quyền xét xử của mình. Mặt khác phải căn cứ vào các hệ thuộc của quy phạm xung đột pháp luật để tìm ra hệ thống luật của nước có liên quan để áp dụng. Việc xác định thẩm quyền xét xử là hành vi tố tụng luôn được thực hiện trước khi giải quyết xung đột pháp luật.

Từ vụ việc trên đây có thể thấy rằng, đối với các vụ tranh chấp có nội hàm tương đồng, căn cứ vào Điều 666 của Bộ luật Dân sự hiện hành, tòa án Việt Nam hoàn toàn có thẩm quyền để xét xử các vụ tranh chấp bất kể các quy định về quyền tài phán đơn phương một chiều của chủ tàu nước ngoài như vụ việc nói trên.

Luật sư VÕ NHẬT THĂNG

Bàn về tình tiết ‘Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội’ theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự

Thời hạn quyền sử dụng đất theo quy định hiện hành

(LSVN) - Đất có thời hạn sử dụng là gì? Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về thời hạn sử dụng đất. Bạn đọc K.L. hỏi.

Ảnh minh họa.

Hiện nay, trong các Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản pháp luật về đất đai hiện hành không có văn bản nào quy định cụ thể về khái niệm “đất có thời hạn sử dụng”, nhưng theo cách hiểu thông thường, và dựa trên quy định về đất sử dụng có thời hạn theo quy định tại Điều 126 Luật Đất đai năm 2013, có thể hiểu: “Đất có thời hạn sử dụng” là cách nói để xác định những mảnh đất mà người sử dụng đất chỉ được phép chiếm hữu và sử dụng diện tích đất này trong một thời hạn nhất định (ở đây được gọi là thời hạn sử dụng đất), ví dụ 20 năm, 30 năm, 50 năm… theo nội dung quy định của pháp luật cũng như sự cho phép của Nhà nước khi thực hiện giao đất, cho thuê quyền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, hay thực hiện việc nhận chuyển quyền từ người khác trong quá trình sử dụng đất. Hết thời hạn này, diện tích đất được xác định là “đất có thời hạn sử dụng đất” có thể bị Nhà nước thu hồi hoặc được gia hạn để tiếp tục sử dụng.

Thời hạn sử dụng đất là khoảng thời gian mà người sử dụng đất được thực hiện các quyền của mình. 

Căn cứ Điều 125, 126 Luật Đất đai 2013, thời hạn sử dụng đất được chia thành hai loại: Đất sử dụng ổn định lâu dài và đất sử dụng có thời hạn.

Về đất sử dụng ổn định lâu dài, người sử dụng đất được sử dụng đất ổn định lâu dài trong các trường hợp sau đây: Đất ở do hộ gia đình, cá nhân sử dụng; Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này; Đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên; Đất thương mại, dịch vụ, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng ổn định mà không phải là đất được Nhà nước giao có thời hạn, cho thuê; Đất xây dựng trụ sở cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 147 của Luật này; đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ chức sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính quy định tại khoản 2 Điều 147 của Luật này; Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; Đất cơ sở tôn giáo quy định tại Điều 159 của Luật này; Đất tín ngưỡng; Đất giao thông, thủy lợi, đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, đất xây dựng các công trình công cộng khác không có mục đích kinh doanh; Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa; Đất tổ chức kinh tế sử dụng quy định tại khoản 3 Điều 127 và khoản 2 Điều 128 của Luật này.

Điều 126 Luật Đất đai quy định rõ về đất sử dụng có thời hạn, theo đó, thời hạn giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo quy định tại khoản 1, khoản 2, điểm b khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 129 của Luật này là 50 năm. Khi hết thời hạn, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nếu có nhu cầu thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản này.

Thời hạn cho thuê đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân không quá 50 năm. Khi hết thời hạn thuê đất, hộ gia đình, cá nhân nếu có nhu cầu thì được Nhà nước xem xét tiếp tục cho thuê đất.

Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ, làm cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; tổ chức để thực hiện các dự án đầu tư; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam được xem xét, quyết định trên cơ sở dự án đầu tư hoặc đơn xin giao đất, thuê đất nhưng không quá 50 năm.

Đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê đất không quá 70 năm.

Đối với dự án kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp với cho thuê hoặc để cho thuê mua thì thời hạn giao đất cho chủ đầu tư được xác định theo thời hạn của dự án; người mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất được sử dụng đất ổn định lâu dài.

Khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nhưng không quá thời hạn quy định tại khoản này.

Thời hạn cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao không quá 99 năm. Khi hết thời hạn, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao nếu có nhu cầu sử dụng đất thì được Nhà nước xem xét gia hạn hoặc cho thuê đất khác, mỗi lần gia hạn không quá thời hạn quy định tại khoản này.

Thời hạn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn là không quá 05 năm.

Đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính quy định tại khoản 2 Điều 147 của Luật này và các công trình công cộng có mục đích kinh doanh là không quá 70 năm.

Khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nhưng không quá thời hạn quy định tại khoản này.

Đối với thửa đất sử dụng cho nhiều mục đích thì thời hạn sử dụng đất được xác định theo thời hạn của loại đất sử dụng vào mục đích chính.

Thời hạn giao đất, cho thuê đất quy định tại Điều này được tính từ ngày có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

HỒNG HẠNH

Các cửa hàng ăn uống tại TP. Hồ Chí Minh muốn mở cửa trở lại cần những điều kiện gì?

Admin