[1] Tại cả hai bản án, cả hai cấp tòa án đều thống nhất chấp nhận một đoạn tin nhắn zalo được xem là từ bà Đ.T.N. – Chủ tịch Công ty TNHH D1 gửi cho bà Đ.T.H. là thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty TNHH D1 đối với bà H., từ đó nhận định Công ty TNHH D1 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với bà H. Cụ thể:
[1.1] Tại Mục [6] Bản án 01/2024/LĐ-ST ngày 01/02/2024 - Phần nhận định của Tòa án, TAND TP. T. nhận định:
“[6]. Xét nội dung về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Hội đồng xét xử nhận thấy: Vào 00h54 phút ngày 17/4/2023, bà H. nhận được tin nhắn zalo được đăng ký với số điện thoại có tên nick là “T.N.”, có tên lưu trong danh bạ điện thoại của bà H. là “Chị N.” từ bà N. với nội dung yêu cầu bà H. không phải đến Công ty TNHH D1 làm việc kể từ ngày 17/4/2023. Theo nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH D1 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh B., Công ty TNHH D1 đăng ký lần đầu ngày 18/5/2018 đã xác định chủ sở hữu Công ty TNHH D1 là bà N. Điều này phù hợp nội dung quy định tại Điều 13 Điều lệ Công ty TNHH D1. Mặt khác trên các nền tảng mạng xã hội của Công ty TNHH D1, Trung tâm ngoại ngữ H.G. (do Công ty TNHH D1 làm chủ đầu tư) đăng thông tin tuyển dụng đều thể hiện nội dung liên hệ trực tiếp làm việc với bà N. Điều đó cho thấy, việc điều hành hoạt động của Công ty TNHH D1 do bà N. thực hiện. Ngoài ra, bản thân bà N. là chủ sở hữu kiêm chủ tịch Công ty TNHH D1, có quyền thực hiện việc quản trị công ty. Vì vậy, việc bà N. báo tin yêu cầu bà H. nghỉ việc là có thật và không trái về quyền hạn theo quy định tại Điều lệ của Công ty TNHH D1".
[1.2] Tại Mục [5] và [6] Bản án 01/2024/LĐ-ST ngày 01/02/2024 - Phần nhận định của Tòa án, TAND tỉnh B. nhận định:
“[5] Xét thấy, theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, mã số doanh nghiệp C., đăng ký lần đầu ngày 18/5/2018 do Phòng Đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh B. cấp cho Công ty TNHH D1, địa chỉ: số D đường C, khu phố A, phường P, thành phố T, tỉnh B thì chủ sở hữu Công ty là bà N. và người đại diện theo pháp luật là ông Đ.V.T. (bút lục 41). Theo Điều 13 và 14 Điều lệ Công ty ngày 08/5/2018 quy định cơ cấu tổ chức quản lý gồm có: Chủ tịch Công ty bà N. và Tổng Giám đốc ông T.; “Chủ tịch Công ty do chủ sở hữu bổ nhiệm, Chủ tịch Công ty N2 chủ sở hữu thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty; nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ quyền và nghĩa vụ của Giám đốc; chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu công ty về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao theo quy định của Luật này, pháp luật có liên quan và Điều lệ Công ty”(bút lục 202).
Theo trang mạng xã hội studentjob.vn đăng ngày 12/7/2023 thì Công ty TNHH D1 có đăng tin tuyển dụng vị trí nhân viên ngành nghề hành chính/văn phòng thể hiện chi tiết liên hệ bà N., email: x, điện thoại: 0916.173.xxx (bút lục 194); trên trang facebook theo địa chỉ: x ở thông tin đăng tải Trung tâm N3 có địa chỉ website: x, điện thoại liên hệ: 02743893xxx, zalo: 0916.173.xxx (bút lục 193); cho thấy, bà N. có tham gia điều hành hoạt động của Công ty TNHH D1 làm chủ đầu tư, Quyết định số 986/QĐ-SGDĐT ngày 07/7/2022 về việc công nhận Giám đốc Trung tâm N3 và Quyết định số 1656/QĐ-SGDĐT ngày 06/10/2022 về việc cho phép hoạt động giáo dục đối vối Trung Tâm N3 (bút lục 191). Quá trình giải quyết vụ án, bà H. xác định: bà H. có kết bạn zalo với bà N. qua số điện thoại 0916.173.xxx để trao đổi công việc trong thời gian làm việc tại Công ty. Do đó, căn cứ xác định: số điện thoại: 0916.173.xxx của nhà mạng Vinaphone là của bà N. là chủ sở hữu và là Chủ tịch Công ty TNHH D1, được bà H. lưu trong danh bạ điện thoại với tên gọi “Chị N.”.
[6] Theo các hình ảnh tin nhắn zalo do bà H. cung cấp lúc 00 giờ 54 phút ngày 17/4/2023, chị N. (tức bà N.) có nhắn tin cho bà H. với nội dung “H. ơi kể từ hôm này em không phải đến Trung tâm làm việc nữa nhé. Hôm nay khi nào tiện nhắn tin chị chị gọi lại em nha. Thay mặt Công ty và Trung tâm rất cảm ơn em trong thời gian qua đã đóng góp và đồng hành cùng chị và Trung tâm” (bút lục 87); đến 20 giờ 12 phút ngày 18/4/2023, chị N. tiếp tục nhắn: “Hi, H. C k biết hôm nay em có đến tt. Qua nay c bận quá, để trong tuần khi nào xong c nhắn e tới ký sớm nhất có thể nha”; sau đó hai bên tiếp tục nhắn tin qua lại, đến 16 giờ 19 phút ngày 23/4/2023, bà H nhắn: “Dạ e lên tt rồi ạ”, chị N. trả lời: “c nhờ ba c ký giấy cho e rồi đó e. E nhận đc chưa?... Ủa ba c nói là e không có lấy về”, bà H. trả lời: “E cần đọc lại biên bản đó nên chưa ký, e kh cần lấy giấy về đâu ạ” (bút lục 82).
Theo khoản 6 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử 2005 thì tin nhắn nêu trên được xem là chứng cứ. Do chưa hết thời hạn hợp đồng, bà N. đã thông báo chấm dứt Hợp đồng lao động số 11-001/2022/HĐLĐ ngày 07/11/2022 với bà H. kể từ ngày 17/4/2023 mà không có lý do chính đáng, không thực hiện báo trước theo quy định của luật lao động là trái pháp luật. Do đó, bà H. khởi hiện Công ty yêu cầu thanh toán và bội thường cho bà H. các khoản theo quy định là có căn cứ; chứng cứ được thể hiện tại “Thỏa thuận chấm dứt và thanh lý hợp đồng (Hợp đồng lao động số 11-001/2022/HĐLĐ)” do Công ty S. vào tháng 4 năm 2023, tại TP. T. không có chữ ký của người đại diện theo pháp luật của Công ty và bà H. (bút lục 03).
Tòa án cấp sơ thẩm xác định Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và buộc Công ty phải bồi thường các khoản theo Điều 41 của Bộ luật Lao động cho bà H., bao gồm: 02 tháng lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là 14.000.000 đồng; thanh toán tiền lương của những ngày không được làm việc (từ ngày 17/4/2023 đến ngày 07/11/2023) là 48.125.000 đồng và bồi thường do vi phạm thời gian báo trước 30 ngày với số tiền 7.000.000 đồng với tổng số tiền 69.125.000 đồng là có căn cứ. Về phần bảo hiểm, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: “buộc Công ty TNHH D1 thực hiện nộp tiền bảo hiểm xã hội cho bà H. trong thời gian còn lại là 06 tháng (từ ngày 01/5/2023 đến ngày 30/10/2023), tính trên số lương làm căn cứ nộp bảo hiểm là 5.100.000 đồng/tháng” theo mức nộp 21,5% là hoàn toàn phù hợp.
Tuy nhiên, phần quyết định của bản án sơ thẩm lại tuyên: “Công ty TNHH D1 chi trả tiền tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong nhưng ngày bà H. không được làm việc tính từ ngày từ ngày 01/5/2023 đến ngày 30/10/2023” với số tiền 6.579.000 đồng là không đúng quy định pháp luật. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty, sửa một phần bản án sơ thẩm về phần này và tính lại án phí sơ thẩm cho phù hợp".

Ảnh minh hoạ.
[1.3] Từ các nhận định trên, có thể thấy cả hai cấp tòa án đều thống nhất: (1) Chấp nhận đoạn tin nhắn zalo được cho là từ bà H. gửi cho bà N. là chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án; và (2) chấp nhận đoạn tin nhắn zalo được cho là từ bà H. gửi cho bà N. là thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty TNHH D1 đối với bà H.
[2] Tuy nhiên, đối chiếu các nhận định trên của hai cấp tòa án với các quy định có liên quan của pháp luật, có thể thấy có một số vấn đề như sau:
[2.1] Tòa án hai cấp xét xử chấp nhận đoạn tin nhắn zalo được cho là từ bà H gửi cho bà N. là chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án nhưng chưa tiến hành đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ và phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005[2] và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, cụ thể:
[2.1.1] Theo khoản 1 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, chứng cứ có thể được thu thập từ các nguồn dữ liệu điện tử. Theo khoản 3 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Như vậy, dữ liệu điện tử có thể là nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự nhưng việc xác định chứng cứ là thông điệp dữ liệu điện tử phải tuân theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
[2.1.2] Theo khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005[3], thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi, được nhận, được lưu trữ bằng phương tiện điện tử và theo Điều 10 Luật Giao dịch điện tử 2005[4], thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức văn bản điện tử, tài liệu điện tử, chứng thư điện tử, chứng từ điện tử, hợp đồng điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và hình thức trao đổi dữ liệu điện tử khác theo quy định của pháp luật. Theo khoản 1 Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005[5], thông điệp dữ liệu được dùng làm chứng cứ theo quy định của pháp luật về tố tụng. Với các quy định như đã nêu, tin nhắn zalo có thể được xem là một dạng “trao đổi dữ liệu điện tử khác” của thông điệp dữ liệu và có thể được xem là chứng cứ trong tố tụng dân sự.
[2.1.3] Theo khoản 2 Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005, giá trị dùng làm chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, gửi, nhận hoặc lưu trữ thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo, gửi, nhận thông điệp dữ liệu và các yếu tố phù hợp khác.
[2.1.4] Trên thực tế, tin nhắn zalo hoàn toàn có thể được bên khởi tạo tin nhắn can thiệp trong quá trình giao dịch, cụ thể: bên khởi tạo tin nhắn có thể chỉnh sửa, rút, xóa… tin nhắn mà mình đã khởi tạo, do đó không đảm bảo độ tin cậy của cách thức khởi tạo, gửi, nhận hoặc lưu trữ thông điệp dữ liệu và không đảm bảo tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu. Ngoài ra, kể cả người khởi tạo tin nhắn lẫn bên nhận tin nhắn đều có thể chỉnh sửa tùy ý thông tin cá nhân về mình và bên còn lại trên phương tiện tạo tin hoặc phương tiện đọc và lưu trữ tin của mình (chỉnh sửa tên gọi nickname, chỉnh sửa số điện thoại…), dẫn đến không thể xác định được chính xác ai là bên khởi tạo tin nhắn, ai là bên nhận tin nhắn, do đó không đảm bảo độ tin cậy của cách thức xác định người khởi tạo, gửi, nhận thông điệp dữ liệu. Đó là chưa kể đến việc zalo có thể dễ dàng bị hack, hoặc bị người khác sử dụng ngoài ý muốn của chủ sở hữu zalo (ví dụ con cái lấy điện thoại của cha mẹ để gửi nhận zalo)…
Tất cả cho thấy, thông diệp dữ liệu là tin nhắn zalo không đảm bảo độ tin cậy của cách thức khởi tạo, gửi, nhận hoặc lưu trữ thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo, gửi, nhận thông điệp dữ liệu và các yếu tố phù hợp khác như yêu cầu tại khoản 2 Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005. Nói cách khác, thông diệp dữ liệu là tin nhắn zalo tự bản thân nó không hội tụ đủ các điều kiện để đảm bảo giá trị dùng làm chứng cứ của một thông điệp dữ liệu. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ án có sử dụng chứng cứ là tin nhắn zalo, tòa án nhất thiết phải tiến hành đánh giá chứng cứ để xác định giá trị dùng làm chứng cứ của tin nhắn zalo và phải tuân thủ nguyên tắc cơ bản về việc đánh giá chứng cứ quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Cụ thể: Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác; và tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ.
[2.1.5] Quay lại với vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án tại hai cấp tòa án, cả hai cấp tòa án đã đưa ra một số minh chứng và lập luận để xác định số điện thoại 0916.173.188 là của bà N., đoạn tin nhắn zalo tham chiếu được gửi từ zalo sử dụng số điện thoại của bà N. Tuy nhiên, các minh chứng và lập luận của cả hai cấp tòa án vẫn chưa làm rõ hai vấn đề rất quan trọng: bà N. có phải là người khởi tạo đoạn tin nhắn zalo hay không hay là một người nào khác (tức không đảm bảo độ tin cậy của cách thức xác định người khởi tạo, gửi, nhận thông điệp dữ liệu), và đoạn tin nhắn zalo được sử dụng có phải là đoạn tin nhắn zalo với đầy đủ nội dung và là thông điệp mà bà N. muốn gửi cho bà H. hay không hay chỉ là một đoạn tin nhắn zalo đã được chỉnh sửa cho mục đích khác (tức không đảm bảo độ tin cậy của cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu). Trong quá trình giải quyết vụ án tại cả hai cấp tòa án, tòa án cho biết đã mời bà N. tham gia tố tụng, điều này là phù hợp và cần thiết nhằm đối chất giữa các bên như là một biện pháp đánh giá chứng cứ để xác nhận các vấn đề liên quan đến đoạn tin nhắn zalo do bà H. cung cấp. Tuy nhiên, bà N. lại không nhận được thư mời của tòa án và trên thực tế cả hai cấp tòa án cũng không có bất kỳ buổi làm việc, đối chất hay nhận được bất kỳ ý kiến nào từ bà N. về vấn đề trên. Công ty TNHH D1 đã nhiều lần xác nhận không chấp nhận đoạn tin nhắn zalo do bà H. cung cấp, tuy nhiên, cả hai cấp tòa đã không tiến hành đánh giá chứng cứ theo đúng quy định tại Điều 108 BLTTDS, không cho tiến hành giám định mà đã chấp nhận chứng cứ do bà H. cung cấp làm chứng cứ để giải quyết vụ án dựa trên những suy đoán thiếu căn cứ.
[2.1.6] Như vậy, cả hai cấp tòa án đều chấp nhận đoạn tin nhắn zalo từ bà H. gửi cho bà N. là chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án khi chưa có những đánh giá đầy đủ là chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005 và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận đoạn tin nhắn zalo được cho là của bà N gửi cho bà H. do bà H. cung cấp cho tòa án là một chứng cứ cho mục đích xem xét, giải quyết vụ án.
[2.2] Tòa án chấp nhận đoạn tin nhắn zalo được cho là từ bà H gửi cho bà N. là thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động từ Công ty TNHH D1 đối với bà H. không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019, cụ thể:
[2.2.1] Theo khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho người lao động về việc chấm dứt hợp đồng lao động khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định của Bộ luật Lao động, trừ những trường hợp quy định tại các khoản 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 34 của Bộ luật này[6]. Theo quy định trên, khi chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động và chỉ thông báo theo hình thức này mới là căn cứ pháp lý chính thức xác nhận hành vi/quyết định chấm dứt hợp đồng lao động từ người sử dụng lao động đối với người lao động, mọi phương thức khác đều không có giá trị. Cùng với ý nghĩa này, khi được thông báo chấm dứt hợp đồng lao động từ người sử dụng lao động (hoặc cho rằng đó là thông báo chấm dứt hợp đồng lao động từ người sử dụng lao động) bằng một phương thức khác không phải bằng văn bản (như tin nhắn zalo, email, điện thoại…) người lao động phải yêu cầu người sử dụng lao động ra thông báo chấm dứt bằng văn bản. Trường hợp người sử dụng lao động từ chối ra thông báo chấm dứt bằng văn bản thì xem như người sử dụng lao động chưa chấm dứt hợp đồng lao động và người lao động vẫn có thể đi làm theo hợp đồng lao động đã ký kết hoặc khiếu nại đến người sử dụng lao động để yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019 như đã nêu.
[2.2.2] Theo Điều 12 Luật Giao dịch điện tử 2005[7], thông điệp dữ liệu được xem có giá trị như văn bản nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên thông diệp dữ liệu là tin nhắn zalo không đảm bảo độ tin cậy của cách thức khởi tạo, gửi, nhận hoặc lưu trữ thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo, gửi, nhận thông điệp dữ liệu và các yếu tố phù hợp khác như yêu cầu tại khoản 2 Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005. Vì vậy, thông diệp dữ liệu là tin nhắn zalo không đủ điều kiện để được xem là có giá trị như văn bản quy định tại Điều 12 Luật Giao dịch điện tử 2005.
[2.2.3] Mặc dù Bộ luật Lao động không quy định về nội dung của một thông báo chấm dứt hợp đồng lao động, tuy nhiên, xét về bản chất của một quyết định chấm dứt hợp đồng lao động, thông báo chấm dứt hợp đồng lao động phải bao gồm ít nhất những nội dung sau: thông tin về người sử dụng lao động, thông tin về người đại diện có thẩm quyền của người sử dụng lao động quyết định việc chấm dứt hợp đồng lao động, thông tin về người lao động, thông tin về hợp đồng lao động bị chấm dứt, ngày chấm dứt hợp đồng lao động... Và thông báo chấm dứt hợp đồng lao động cũng phải được gửi cho người lao động đến địa chỉ của người lao động như ghi trên hợp đồng lao động hoặc một phương thức khác có thể đảm bảo người lao động nhận được thông báo.
[2.2.4] Quay trở lại với vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án tại hai cấp tòa án, cả hai cấp tòa án đã mặc nhiên thừa nhận và xác định đoạn tin nhắn zalo được cho là của bà N. gửi bà H. là thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty TNHH D1 đối với bà H. Từ đó, nhận định Công ty TNHH D1 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà H. Tuy nhiên, cái được cho là thông báo chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty TNHH D1 cho bà H. chỉ đơn giản là một đoạn tin nhắn zalo được cho là của bà N. gửi cho bà H., rõ ràng là không phù hợp về mặt hình thức của thông báo chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019 như đã nêu.
[2.2.5] Mặt khác, mặc dù bà H. nhận thức rõ là phải cần có thông báo bằng văn bản (theo nội dung bản ghi âm do bà H. cung cấp cho tòa án, bà H. có yêu cầu bà N. cung cấp thông báo chấm dứt hợp đồng lao động bằng văn bản), nhưng sau khi nhận được tin nhắn zalo được cho là của bà N. gửi cho mình, bà H. hoàn hoàn không có yêu cầu hay phản đối gì, mà mặc nhiên xem đây là thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động từ Công ty TNHH D1, điều này hoàn toàn không phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động 2019 như đã nêu. Ngoài ra, qua tham khảo đoạn tin nhắn zalo do bà H cung cấp, có thể thấy nội dung tin nhắn quá sơ sài, không thể xác định được những thông tin cơ bản của một quyết định/ thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như đã nêu (không có thông tin về người sử dụng lao động, thông tin về người lao động, thông tin về hợp đồng lao động bị chấm dứt...). Nội dung tin nhắn thực chất là trao đổi giữa hai người liên quan đến việc không đi làm như là một lời đề nghị từ một bên cho bên còn lại. Tuy nhiên, bên còn lại đã không có bất kỳ ý kiến phản đối hay không đồng ý với đề nghị trên.
[2.2.6] Như vậy, đoạn tin nhắn zalo được cho là của bà N. gửi cho bà H. do bà H. cung cấp cho tòa án nếu đây là một đoạn tin nhắn có giá trị chứng cứ thì cũng không thỏa mãn điều kiện bắt buộc về hình thức của một thông báo/ quyết định chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019. Vì vậy, đoạn tin nhắn zalo này không thể và không có căn cứ được xem là thông báo/quyết định chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty TNHH D1.
[2.2.7] Như vậy, việc cả hai cấp tòa án đã mặc nhiên thừa nhận và xác định đoạn tin nhắn zalo được cho là của bà N. gửi bà H. là thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty TNHH D1 đối với bà H. là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019. Vì vậy, hoàn toàn chưa đủ căn cứ xác định Công ty TNHH D1 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà H. và việc bà H. cho rằng đó là thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động từ Công ty TNHH D1 và nghỉ việc hoàn toàn là quyết định đơn phương của bà H.
[3] Mặc dù tại cả hai bản án, cả hai cấp tòa án đã đưa ra một số minh chứng và luận cứ nhằm ủng hộ cho các quyết định của mình. Mặc dù xét về mặt thực tế, có thể tòa án và nhiều người sẽ đồng ý và tin chắc rằng: bà N. là người có ảnh hưởng tại Công ty TNHH D1, đoạn tin nhắn zalo được cho là của bà N. gửi bà H. về việc cho bà H. nghỉ việc là có thật và bà H. không có phương thức nào khác ngoài việc buộc phải nghỉ việc ngoài ý muốn. Tuy nhiên với những phân tích như đã nêu, rõ ràng vụ án vẫn còn nhiều những vấn đề chưa được giải quyết cần phải giải quyết và vì vậy, dù vụ án đã qua hai cấp xét xử nhưng rõ ràng vẫn có gì đấy chưa thật sự thuyết phục và vẫn cần được xem xét lại!
Với quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005, có thể thấy dữ liệu điện tử nói chung hay thông điệp dữ liệu nói riêng có đặc điểm rất dễ bị can thiệp trong quá trình tạo lập, truyền và lưu trữ dữ liệu và vì vậy rất khó đảm bảo tính khách quan của chứng cứ là một thông điệp dữ liệu. Vì vậy, việc xác định giá trị chứng cứ của một thông điệp dữ liệu cần phải triệt để đảm bảo các yêu cầu tại khoản 2 Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005. Tuy nhiên, pháp luật về tố tụng dân sự hiện nay ngoài những quy định về chứng minh và chứng cứ đối với chứng cứ là các tài liệu đọc được nội dung, các tài liệu nghe được, nhìn được theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011[8], vẫn chưa có những cơ sở rõ ràng để đánh giá chứng cứ là một thông điệp dữ liệu, đặc biệt là trong vấn đề thu thập chứng cứ, xác định tính toàn vẹn của chứng cứ về nội dung và theo thời gian, xác định mối quan hệ và nghĩa vụ của người khởi tạo với phương tiện khởi tạo… Những vấn đề này rất cần đươc kiến nghị và xem xét trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng.
Khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019 quy định về hình thức và nghĩa vụ phải thông báo khi chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động nhưng không quy định hình thức và nghĩa vụ phải thông báo khi chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động cũng như hậu quả pháp lý khi không tuân thủ các yêu cầu tại điều này. Điều này gây bối rối và khó khăn trong việc xác định một thông báo chấm dứt hợp đồng không đúng về hình thức (quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019) có làm phát sinh hậu quả pháp lý (hợp đồng lao động bị chấm dứt) hay không và có thể đồng nhất một thông báo chấm dứt hợp đồng không đúng về hình thức (quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động 2019) với một hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật (quy định tại Điều 39 Bộ luật Lao động 2019). Vì vậy, vấn đề này cũng rất cần được kiến nghị và xem xét trong quá trình hoàn thiện pháp luật về lao động.
[1] Các tên gọi Đ.T.H. hay bà H., Đ.T.N. hay bà N., Công ty TNHH D1, ông Đ.V.T. và một số thuật ngữ khác trong bài viết được sử dụng thống nhất theo tên gọi tương ứng tại Bản án số 09/2024/LĐ-PT ngày 29/7/2024 của TAND tỉnh B., đã được mã hóa và đưa lên cổng thông tin công bố bản án, quyết định của TAND tối cao.
[2] Hiện được thay bằng khoản 2 Điều 11 Luật Giao dịch điện tử 2023.
[3] Hiện được thay bằng khoản 4 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử 2023.
[4] Hiện được thay bằng khoản 1 Điều 7 Luật Giao dịch điện tử 2023.
[5] Hiện được thay bằng khoản 1 Điều 11 Luật Giao dịch điện tử 2023.
[6] (Trích Bộ luật Lao động 2019)
“Điều 34. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động
…
4. Người lao động bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không thuộc trường hợp được trả tự do theo quy định tại khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
5. Người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam bị trục xuất theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
6. Người lao động chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết.
7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.
8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải.
…”
[7] Hiện được thay bằng khoản 1 Điều 9 Luật Giao dịch điện tử 2023.[8] Theo Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Thạc sĩ, Luật sư NGUYỄN THỊ KIM QUYÊN
Trường đại học Văn Lang

