1. Người đứng đầu cơ sở tiêm chủng chịu trách nhiệm nếu ảnh hưởng đến việc cấp 'hộ chiếu vaccine'
(LSVN) - Người đứng đầu các cơ sở tiêm chủng chịu trách nhiệm nếu thông tin tiêm chủng của người dân bị sai sót không được cập nhật kịp thời, ảnh hưởng đến việc cấp "Hộ chiếu vaccine", phục vụ cho việc đi lại, giao thương quốc tế.
![]()
Ảnh minh họa.
Đây là nội dung đáng chú ý tại Văn bản ngày 19/4 của Bộ Y tế gửi đến các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế; Y tế các Bộ, ngành về việc "làm sạch" dữ liệu tiêm chủng vaccine phòng Covid-19 và triển khai ký xác nhận hộ chiếu vaccine.
Trong đó, Bộ Y tế nêu rõ, người đứng đầu các cơ sở tiêm chủng chịu trách nhiệm nếu thông tin tiêm chủng của người dân bị sai sót không được cập nhật kịp thời, ảnh hưởng đến việc cấp hộ chiếu vaccine, phục vụ cho việc đi lại, giao thương quốc tế.
Bộ Y tế đề nghị Uỷ ban nhân các tỉnh, thành phố; các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế; Y tế các Bộ, ngành lập danh sách cán bộ đầu mối phụ trách công tác tiêm chủng (bao gồm các thông tin: Họ và tên, Đơn vị, Chức vụ, Số điện thoại) gửi về Bộ Y tế để phối hợp trong việc "làm sạch" dữ liệu và cấp hộ chiếu vaccine.
Tại văn bản, Bộ Y tế đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố giao Tổ công tác Đề án 06 của các tỉnh, thành phố chủ trì chỉ đạo thực hiện "làm sạch" dữ liệu tiêm chủng Covid-19 theo Công văn số 1495/BYT-CNTT ngày 24/03/2022 về việc đôn đốc, bổ sung, xác thực thông tin tiêm chủng Covid-19 phục vụ kết nối với cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư.
Thời gian hoàn thành trước ngày 05/05/2022.
Đồng thời, chỉ đạo các cơ sở tiêm chủng trên địa bàn tổ chức rà soát, xử lý dứt điểm các phản ánh của người dân về thông tin tiêm chủng Covid-19 trên Cổng thông tin tiêm chủng Covid-19 và duy trì việc xử lý phản ánh theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Thực hiện ký số toàn bộ đối tượng tiêm chủng đã được xác thực đúng thông tin với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Thời gian hoàn thành hai nội dung này trước ngày 30/04/2022.
PHƯƠNG HOA
Một số vấn đề về chủ thể của tội phạm tình dục trong pháp luật hình sự hiện nay
2. Hoàn thành việc tiêm mũi 2 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi trong Quý II/2022
(LSVN) - Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo 114/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Phiên họp lần thứ 14 Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 trực tuyến với các địa phương. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu cần quyết liệt hơn nữa, cụ thể hơn nữa trong việc cung ứng, nhập khẩu và tiêm vaccine cho trẻ em.
![]()
Ảnh minh họa.
Thông báo nêu rõ, các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới là tinh thần chung là không được chủ quan, lơ là, mất cảnh giác vì tình hình còn diễn biến phức tạp; tiếp tục tăng cường y tế dự phòng, y tế cơ sở; đẩy mạnh hơn nữa việc tiêm vaccine nhất là cho trẻ em; lưu ý một số nhiệm vụ cụ thể:
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu hoàn thành việc tiêm mũi 2 cho trẻ em từ 12-18 tuổi trong tháng 4/2022. Hoàn thành việc tiêm mũi 2 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi trong Quý II/2022 cho các đối tượng cần tiêm để các cháu đến trường an toàn trong các tháng học hè và bắt đầu năm học mới an toàn vào tháng 9/2022.
Xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết, triển khai nhanh hơn nữa việc cung ứng, tổ chức tiêm vaccine cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi để đạt mục tiêu đề ra trong phiên họp lần thứ 13 của Ban Chỉ đạo Quốc gia.
Bộ Y tế và các cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu việc tiêm mũi thứ 4 cho các đối tượng trong chỉ định tiêm, nhất là các đối tượng rủi ro cao như người cao tuổi, người có bệnh nền, người lao động tại các khu công nghiệp, đô thị lớn ...
Đẩy mạnh việc chủ động sản xuất vaccine, thuốc chữa bệnh, kít xét nghiệm với việc đơn giản thủ tục hành chính đến mức tối đa nhất có thể, nhưng phải bảo đảm đúng quy định hiện hành, nhất là chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine mRNA.
Về công tác tuyên truyền, cần xây dựng các nội dung hướng dẫn phòng, chống dịch Covid-19, nhất là việc điều trị tại nhà, mở các cuộc tọa đàm; tập trung tuyên truyền cho việc tiêm vaccine trẻ em; kỹ năng tự chữa trị, tự phòng, chống dịch Covid-19.
MAI HUỆ
Bảo đảm mở lại du lịch an toàn, thân thiện, tổ chức SEA Games lần thứ 31 hiệu quả, thành công
1. Phát triển lực lượng doanh nghiệp, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
(LSVN) - Phát triển lực lượng doanh nghiệp; thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng được nêu tại Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 do Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, về cơ cấu lại và phát triển doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án tiếp tục cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung giữ những lĩnh vực then chốt, thiết yếu. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước theo hướng quy định rõ về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, áp dụng các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế tốt trong quản trị, áp dụng triệt để nguyên tắc thị trường trong chính sách tiền lương. Xây dựng cơ chế tách bạch nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhiệm vụ chính trị và an sinh xã hội của một số doanh nghiệp nhà nước.
Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước chủ trì xây dựng Phương án cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Về phát triển lực lượng doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy chuyển đổi số, liên doanh, liên kết, nâng cao năng lực cạnh tranh: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương tổ chức triển khai hiệu quả Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021 - 2025.
Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với các bộ, ngành và địa phương thực hiện hiệu quả, triển khai đồng bộ Đề án chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Đối với đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã trình Chính phủ, Quốc hội ban hành. Thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường liên kết, giải phóng nguồn lực, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Ngoài ra, Nghị quyết cũng nêu rõ nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế đô thị, tăng cường liên kết vùng, liên kết đô thị - nông thôn và phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn; cơ cấu lại các ngành theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế xanh, bền vững và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế.
Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo chức năng, thẩm quyền và nhiệm vụ được giao chỉ đạo đưa ngay những nhiệm vụ phù hợp của Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội khóa XV và Nghị quyết này của Chính phủ vào nội dung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2022 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2025; xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết này của Chính phủ; đồng thời chỉ đạo triển khai ngay các giải pháp, nhiệm vụ theo chức năng thẩm quyền, phù hợp với điều kiện thực tế ở từng ngành, lĩnh vực và địa phương.
DUY ANH
Phát triển các loại thị trường, nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực
2. Đối tượng lập dự phòng tổn thất đầu tư chứng khoán
(LSVN) - Vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 24/2022/TT-BTC ngày 07/4/2022, sửa đổi Thông tư 48/2019/TT-BTC hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp.
![]()
Ảnh minh họa.
Trong đó, Thông tư 24/2022/TT-BTC đã sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 5 Thông tư số 48/2019/TT-BTC. Cụ thể, đối tượng lập dự phòng là các loại chứng khoán do các tổ chức kinh tế trong nước phát hành theo quy định của pháp luật, thuộc sở hữu của doanh nghiệp, đang được niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán trong nước, được tự do mua bán trên thị trường và giá chứng khoán thực tế trên thị trường tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm thấp hơn giá trị của khoản đầu tư chứng khoán đang hạch toán trên sổ kế toán.
Đối tượng lập dự phòng nêu trên không bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương. Đây là nội dung mới được bổ sung.
Ngoài ra, Thông tư 24/2022/TT-BTC cũng sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 5 Thông tư số 48/2019/TT-BTC về công thức tính mức trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/5/2022.
MAI HUỆ
3. Nhóm đối tượng cướp 2 tỉ đồng tại TP. HCM đối diện với mức án nào?
(LSVN) - Theo Luật sư với số tiền cướp được trên 2 tỉ đồng và hành vi có thể được xác định là có tổ chức nên các đối tượng này sẽ phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất của tội "Cướp tài sản" là phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Trước đây tội danh này có hình phạt cao nhất là tử hình, tuy nhiên sau khi sửa đổi Bộ luật Hình sự, đến nay hình phạt tử hình đã không còn áp dụng trong tội danh này mà hình phạt cao nhất là tù chung thân.
![]()
7 đối tượng trong vụ cướp tại cơ quan điều tra.
Nhóm cướp hơn 2 tỉ đồng trong căn biệt thự ở TP.HCM
Vừa qua, Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP. HCM phối hợp với Công an quận 5 lấy lời khai 7 đối tượng trong vụ cướp tài sản táo tợn trong ngôi biệt thự trên đường Trần Bình Trọng (quận 5) tối 09/4, hoàn tất xử lý về hành vi cướp tài sản.
4 đối tượng chủ chốt gồm: Nguyễn Quốc Thái (SN 1994), Lê Hồng Khanh (SN 1980), Lê Thị Dư (SN 1950) và Lê Thị Hồng (SN 1987). Các đối tượng còn lại là Trần Minh Trung (SN 1985), Đào Thị Phụng (SN 1972, cả 2 cùng quê Ninh Thuận) và Bùi Thị Thảo (SN 1996, vợ Khanh). Trong các đối tượng này có Dư và Hồng là người giúp việc trong ngôi biệt thự, làm “tay trong” của các đối tượng.
Theo thông tin ban đầu, tối 09/4, tại căn biệt thự có cháu S. (14 tuổi) cùng 2 người giúp việc ở nhà. Thời điểm này, một đối tượng tiếp cận căn biệt thự bấm chuông yêu cầu người nhà ra nhận hàng.
Vừa mở cửa, một nữ giúp việc bị tên cướp đẩy vào bên trong, đồng thời nghi phạm khác xông vào và khóa cửa. Nhóm cướp sau đó dùng dao, búa khống chế, trói tay các nạn nhân, uy hiếp S. mở khóa cửa phòng khách để lục tủ lấy tiền.
Gia đình nạn nhân trình báo tài sản bị mất gồm 1,8 tỉ đồng cùng 10.000 USD.
Thời điểm xảy ra vụ án, 2 người giúp việc là Dư và Hồng cùng bị nhóm cướp trói lại. Tuy nhiên, hình ảnh camera an ninh quay lại cho thấy 2 người phụ nữ không tỏ ra hoảng sợ. Qua điều tra, Dư và Hồng thừa nhận hành vi phạm tội.
Hiện, vụ việc đang được tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối mặt với khung hình phạt cao nhất là tù chung thân
Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp đánh giá, đây là vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng với nhiều đối tượng tham gia, số tiền cướp được đặc biệt lớn lên đến hơn 2 tỉ đồng tiền mặt và ngoại tệ. Đặc biệt, hành vi phạm tội của các bị can có sự giúp sức đắc lực của hai người giúp việc trong gia đình nạn nhân. Hành vi của nhóm đối tượng này là rất manh động, táo tợn, coi thường pháp luật và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu tài sản của công dân. Lợi dụng thông tin từ phía hai người giúp việc mà nhóm đối tượng này đã sử dụng vũ khí để đe dọa, uy hiếp tinh thần nạn nhân, chiếm đoạt lượng tài sản rất lớn. Hành vi này thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội "Cướp tài sản" theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Với số tiền cướp được trên 2 tỉ đồng và hành vi có thể được xác định là có tổ chức nên các đối tượng này sẽ phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất của tội "Cướp tài sản" là phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Trước đây tội danh này có hình phạt cao nhất là tử hình, tuy nhiên sau khi sửa đổi Bộ luật Hình sự, đến nay hình phạt tử hình đã không còn áp dụng trong tội danh này mà hình phạt cao nhất là tù chung thân.
Cụ thể Bộ luật Hình sự quy định như sau:
Điều 168. Tội cướp tài sản 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; h) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; c) Làm chết người; d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Luật sư Cường phân tích rõ, trong vụ án này, bước đầu cơ quan điều tra xác định có 7 đối tượng cùng ý chí thực hiện hành vi cướp tài sản với các vai trò khác nhau. Vì vậy cơ quan điều tra sẽ xác định các bị can trong vụ án này là đồng phạm. Trong trường hợp kết quả điều tra thể hiện các đối tượng đã có sự cấu kết chặt chẽ với nhau, có sự bàn bạc phân công tỉ mỉ thì có thể được xác định là phạm tội có tổ chức, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên các đối tượng sẽ phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc.

Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp.
Đối với những vụ án có đồng phạm thì việc quyết định hình phạt cũng thể hiện cá biệt hóa vai trò đồng phạm, với đối tượng chủ mưu, thực hành tích cực trong vụ án này thì có thể sẽ phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù hoặc tù chung thân, còn các đối tượng giúp sức, vai trò thứ yếu thì có thể hình phạt sẽ thấp hơn.
Ngoài hình phạt mà các đối tượng này sẽ phải gánh chịu là phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân thì các đối tượng này phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra đối với gia đình nạn nhân, nếu số tiền đã chi tiêu, hao hụt thì các đối tượng này phải bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Ngoài ra tội "Cướp tài sản" còn có hình phạt bổ sung là phạt tiền và tịch thu tài sản. Quá trình giải quyết vụ án cơ quan tố tụng sẽ làm rõ các yếu tố có liên quan, làm cơ sở cho Tòa án quyết định hình phạt theo quy định pháp luật.
Điều đáng chú ý là trong vụ cướp này có sự giúp sức đắc lực của hai người giúp việc trong gia đình nạn nhân. Một đối tượng đạt giúp việc 30 năm, đối tượng còn lại giúp việc tại gia đình nạn nhân 10 năm rồi. Với thời gian ăn ở, sinh sống tại nhà nạn nhân lâu như vậy, đáng lẽ ra các đối tượng này phải có trách nhiệm giúp đỡ, bảo vệ tài sản của gia chủ nhưng lại cấu kết với các đối tượng khác để chiếm đoạt tài sản của gia chủ bằng hành vi cướp tài sản rất manh động, liều lĩnh, có sử dụng hung khí. Hành vi cướp tài sản không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, đe dọa đến tính mạng sức khỏe của nạn nhân mà còn gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hành vi của hai đối tượng giúp việc còn thể hiện sự đê hèn, ích kỷ vì lòng tham và coi thường pháp luật mà phản bội cả gia chủ của mình.
Theo Luật sư Cường, ngoài việc xử lý nghiêm minh với các đối tượng vi phạm thì vụ án này cũng sẽ là những bài học cho các gia đình có sử dụng người giúp việc. Nếu không lựa chọn tốt, gặp phải người giúp việc có lòng tham, tâm địa hẹp hòi thì có thể rước họa vào thân. Chủ nhà cũng cần phải thận trọng trong việc cất giữ tài sản, những thông tin cơ mật về làm ăn, tài chính của gia đình. Đồng thời, cần phải có những quy định rõ ràng trong mối quan hệ với người giúp việc, thường xuyên nhắc nhở, giáo dục họ tôn trọng quyền riêng tư, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của chủ nhà.
TIẾN HƯNG
Điểm mới về đăng ký, cấp biển số ô tô, xe máy từ 21/5
SÁNG THỨ 4
1. Xử lý nghiêm mọi hành vi gây nhiễu loạn đất đai
(LSVN) - Có thể nói, thời gian gần đây cùng với việc đất đai "sốt", tăng giá vùn vụt thì tình trạng lừa đảo, dự án "ma", làm giấy tờ giả... cũng theo đó mà tăng lên. Đặc biệt là hành vi làm giá, "thổi giá" gây nhiễu loạn đất đai để trục lợi diễn ra khắp nơi từ thành thị đến nông thôn, miền núi.
![]()
Vụ việc tai tiếng, "đình đám" nhất là vụ "thổi giá" khi đấu giá quyền sử dụng đất ở Thủ Thiêm, theo đó giá trúng đấu giá tăng gấp nhiều lần so giá khởi điểm và cao bất thường so với giá thực tế. Và không ngoài dự đoán của dư luận sau khi trúng đấu giá thì các doanh nghiệp đã bỏ cọc, không tiếp tục mua khu đất này.
Hành vi gây nhiễu loạn thông tin nhằm lừa đảo để trục lợi đang ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, giải phóng mặt bằng, sản xuất kinh doanh... Trong khi người dân có nhu cầu thực sự thì không thể tiếp cận, không thể mua được do "giá ảo" quá cao so với giá trị thực tế. Hành vi này còn gây mất trật tự an toàn xã hội, rối loạn thị trường nhà đất, đe dọa sự an toàn của hệ thống tín dụng, tạo ra "bong bóng" bất động sản...
Do đầu tư đất đai, bất động sản mang lại lợi nhuận đặc biệt lớn, làm giàu nhanh nên nhiều đối tượng đã bất chấp quy định pháp luật, đạo đức nghề nghiệp trong kinh doanh để trục lợi. Hậu quả tiêu cực mà các đối tượng gây ra cho thị trường nhà đất là rất lớn. Bởi không những ảnh hưởng đến hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước mà gây nhiễu loạn thị trường rất nghiêm trọng, xáo trộn quy luật giá cả về nhà đất cuối cùng người hưởng lợi là "cò đất", những nhà đầu tư.
Mục đích của các đối tượng làm nhiễu loạn thị trường là để trục lợi. Ví dụ, vụ việc đấu giá đất ở Thủ Thiêm các đối tượng cố tình đẩy giá lên cao ngất ngưỡng rồi bỏ cọc, làm cho thị trường bất động sản khu vực này, thậm chí cả phạm vi TP.Hồ Chí Minh bị chao đảo, nhiễu loạn. Trường hợp này không loại trừ khả năng những đối tượng đấu giá cao rồi bỏ cọc vừa qua đã mua hết những mảnh đất xung quanh đó nên cố tình đẩy mặt bằng giá lên cao để trục lợi các dự án mà họ đang thực hiện quanh đó.
Vì vậy, các cơ quan chức năng cần có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, quyết liệt, mạnh mẽ. Theo đó, cần ngăn chặn từ gốc các hành vi vi phạm, có biện pháp ngăn chặn ngay khi có dấu hiệu mà không chờ hậu quả xảy ra rồi mới vào cuộc xử lý. Thậm chí, điều tra, xử lý cả những đối tượng có hành vi đăng tải tin tức quảng cáo sai sự thật, cố tình "thổi giá" ảo chứ không chỉ những người trực tiếp tham gia đấu giá.
Có như vậy, mới xử lý triệt để, dứt điểm chứ không chỉ xử lý phần ngọn, xử lý tình huống như một số trường hợp vừa qua. Bởi khí hậu quả đã xảy ra thì vừa tốn kém thời gian công sức của cơ quan chức năng và thực tế đã gây ra thiệt hại lớn cho công dân, tổ chức cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội./.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
Hạn chế tối đa việc giao cho bộ, ngành hướng dẫn luật
1. Chồng có được nghỉ theo chế độ thai sản khi vợ sinh con?
(LSVN) - Vợ tôi sắp sinh, tôi đang đi làm, có đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ. Vậy theo quy định của pháp luật, tôi có được hưởng các chế độ liên quan đến thai sản và có được nghỉ chăm sóc vợ hay không? Bạn đọc N.L. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo quy định tại Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014, người lao động tham gia BHXH bắt buộc được hưởng chế độ thai sản nếu thuộc một trong các trường hợp: Lao động nữ mang thai; Lao động nữ sinh con; Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; Người lao động nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi; Lao động nữ đặt vòng tránh thai, triệt sản; Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.
Ngoài ra người lao động cũng cần đáp ứng thêm điều kiện về thời gian tham gia để được hưởng chế độ thai sản:
- Lao động nữ sinh con, nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi hay người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh hoặc nhận nuôi con nuôi.
- Lao động nữ sinh con đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của bác sĩ thì phải đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh.
Người lao động đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên mà chấm dứt hợp đồng lao động hoặc thôi việc trước khi sinh hoặc nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ này.
Về thời gian hưởng chế độ khi vợ sinh con, lao động nam đang đóng BHXH khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau:
- 5 ngày làm việc: Trường hợp thông thường.
- 7 ngày làm việc: Vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi.
- 10 ngày làm việc: Vợ sinh đôi; từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc.
- 14 ngày làm việc: Vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.
Thời gian nghỉ việc này không tính ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hàng tuần.
Như vậy, căn cứ theo quy định trên, lao động nam cũng được hưởng các chế độ thai sản và thời gian nghỉ chế độ căn cứ theo quy định trên.
HỒNG HẠNH
Người lao động được nghỉ thế nào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương và 30/4 - 01/5?
2. Sửa đổi, bổ sung các chế tài xử phạt hành chính về môi trường theo hướng tăng mức phạt
(LSVN) - Rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế tài xử phạt hành chính theo hướng tăng mức phạt; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định và thực hiện xử lý hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
![]()
Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 do Phó Thủ tướng Lê Văn Thành ký ban hành phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược nhằm ngăn chặn xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường; giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách; từng bước cải thiện, phục hồi chất lượng môi trường; ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học; góp phần nâng cao năng lực chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh môi trường, xây dựng và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, cac-bon thấp, phấn đấu đạt được các mục tiêu phát triển bền vững 2030 của đất nước.
Chiến lược đặt mục tiêu cụ thể là chủ động phòng ngừa, kiểm soát các tác động xấu gây ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Để đạt được mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó nêu rõ tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Cụ thể:
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế tài xử phạt hành chính theo hướng tăng mức phạt; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định và thực hiện xử lý hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, áp dụng cơ chế thanh tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm. Đẩy mạnh phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan thanh tra và lực lượng cảnh sát môi trường.
- Tăng cường cung cấp, công khai, minh bạch thông tin trong quản lý môi trường đến cộng đồng, đồng thời nâng cao trách nhiệm giải trình của cán bộ quản lý môi trường các cấp.
- Tăng cường sự giám sát của cộng đồng, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, cá nhân và các cơ quan truyền thông đối với bảo vệ môi trường; phát triển và ứng dụng các nền tảng số, mạng xã hội, các đường dây nóng... để đẩy mạnh giám sát về môi trường.
- Xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về môi trường, cơ chế xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường.
- Tăng cường năng lực quản trị môi trường trong các doanh nghiệp và các khu, cụm công nghiệp.
Quyết định 450/QĐ-TTg có hiệu lực từ ngày 13/4/2022.
PHƯƠNG HOA
Nhận nhà bao lâu thì sẽ được cấp sổ đỏ?
3. Hoàn thiện mô hình sàn giao dịch nhằm bảo đảm tính minh bạch của thị trường bất động sản
(LSVN) - Sàn giao dịch bất động sản là một trong những hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản khá phổ biến trên thế giới. Tại Việt Nam, mô hình này cũng đã được ghi nhận tại văn bản luật đầu tiên điều chỉnh các hoạt động kinh doanh bất động sản là Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006. Cho tới nay, trong Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, sàn giao dịch bất động sản vẫn được thừa nhận như một biện pháp giúp cho tính minh bạch có trong thị trường kinh doanh bất động sản được bảo đảm. Tuy nhiên, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, mô hình kinh doanh này dường như chưa phát huy được tính hiệu quả một cách toàn diện. Những thay đổi có trong quy định của pháp luật cùng với quá trình triển khai trên thực tế là những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thực trạng đó. Bởi vậy, cần thiết phải có những kiến nghị hướng tới hoàn thiện mô hình sàn giao dịch bất động sản, góp phần bảo đảm tính minh bạch của thị trường kinh doanh bất động sản.
![]()
Ảnh minh họa.
Các quy định của pháp luật về sàn giao dịch bất động sản
Sàn giao dịch bất động sản được hiểu là nơi diễn ra các giao dịch về mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản(1). Như vậy, nói tới sàn giao dịch bất động sản có thể hình dung đây là một “siêu thị” trưng bày các loại bất động sản được phép kinh doanh. Với khách hàng, thay vì phải tới nhiều dự án của nhiều chủ đầu tư để tìm kiếm về một bất động sản phù hợp thì có thể tới sàn giao dịch để tham khảo về nhiều loại hình bất động sản và với nhiều sự lựa chọn đa dạng hơn. Tại đây, không chỉ đơn thuần có bên mua - bên bán mà còn có rất nhiều các chủ thể khác tham gia với tính chất là yếu tố thúc đẩy cho các giao dịch được thực hiện trên thực tế như: môi giới bất động sản, tư vấn bất động sản. Pháp luật kinh doanh bất động sản hiện hành đã có những quy định khá cụ thể về mô hình kinh doanh dịch vụ bất động sàn này.
Điều kiện thành lập sàn giao dịch bất động sản
Tổ chức, cá nhân thành lập sàn giao dịch bất động sản phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, tổ chức, cá nhân thành lập sàn giao dịch bất động sản phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Thứ hai, sàn giao dịch bất động sản phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản, trong đó có người quản lý điều hành sàn giao dịch bất động sản.
Sàn giao dịch bản chất chỉ là địa điểm, còn tất cả các hoạt động diễn ra trong đó như thế nào hoàn toàn dựa trên sự kết nối giữa các bên chủ thể với nhau thông qua vai trò của trung gian làm cầu nối cho các bên trong mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản - đây chính là vai trò của môi giới bất động sản. Do vậy, điều kiện đặt ra cho một số chủ thể phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản bao gồm cả người quản lý, điều hành sàn giao dịch. Chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản chỉ được cấp cho cá nhân đáp ứng đủ các điều kiện: (i) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; (ii) có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên; (iii) đã qua sát hạch về kiến thức môi giới bất động sản. Chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản có thời hạn sử dụng 05 năm.
Thứ ba, sàn giao dịch bất động sản phải có quy chế hoạt động, tên, địa chỉ, cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động.
Quy chế hoạt động của sàn giao dịch bất động sản được coi như “kim chỉ nam” cho quá trình vận hành của sàn được diễn ra theo trật tự nhất định. Bên cạnh đó, mỗi sàn giao dịch sẽ có tên riêng, địa chỉ làm việc cụ thể, diện tích tối thiểu của sàn giao dịch bất động sản là 50m2 và có đầy đủ trang thiết bị đáp ứng yêu cầu.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì sàn giao dịch bất động sản có thể là doanh nghiệp độc lập hoặc đơn vị trực thuộc doanh nghiệp. Sau khi thành lập sàn, đơn vị thành lập cung cấp các thông tin của sàn đến sở xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi sàn hoạt động hoặc Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng). Các sở xây dựng, Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản có trách nhiệm đăng tải công khai các thông tin của sàn do đơn vị thành lập sàn cung cấp trên Cổng thông tin điện tử của đơn vị mình để phục vụ công tác quản lý.
Nội dung hoạt động của sàn giao dịch bất động sản
Sàn giao dịch bất động sản được thành lập với mục đích chính để các bên chủ thể có thể gặp gỡ, tìm hiểu thông tin về bất động sản và xác lập các giao dịch mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản.
Hiện nay theo quy định của pháp luật, việc thực hiện giao dịch thông qua sàn không còn là quy định mang tính chất bắt buộc đối với các loại hình kinh doanh bất động sản. Đây là điểm khác biệt rất lớn so với Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006 trước đây. Theo quy định của Luật năm 2006, tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng thông qua sàn giao dịch bất động sản(2). Mục đích của quy định này là hướng tới tách bạch hai công đoạn có trong thị trường bất động sản: đầu tư xây dựng và phân phối kinh doanh bất động sản. Tuy nhiên, sau khoảng thời gian thi hành Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, mục đích của sàn giao dịch bất động sản không đạt được do trên thực tế đã chứng minh bản thân các sàn chỉ là đại lý phân phối kiếm hoa hồng từ phía khách hàng. Các sàn giao dịch bất động sản bỏ tiền ra mua lại các loại hình bất động sản rồi bán cho khách hàng nhằm mục đích kiếm lời. Bởi vậy, với Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, việc kinh doanh bất động sản phải thực hiện thông qua sàn giao dịch không còn là quy định mang tính bắt buộc đối với các chủ thể tham gia thị trường.
Thực trạng hoạt động của sàn giao dịch bất động sản ở Việt Nam
Sự ra đời của sàn giao dịch bất động sản đã tạo nên cho thị trường những kỳ vọng mới về một nơi diễn ra các giao dịch về bất động sản cũng như dịch vụ bất động sản bảo đảm được tính công khai, minh bạch. Mô hình này không chỉ có ý nghĩa với các chủ thể tham gia trực tiếp các giao dịch trên sàn mà còn giúp cho cơ quan nhà nước có thể kiểm soát được các giao dịch, tránh hiện tượng trốn thuế và hạn chế các giao dịch ngầm được diễn ra.
Không thể phủ nhận những lợi ích mà sàn giao dịch bất động sản mang lại cho thị trường bất động sản nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung. Tại sàn giao dịch, khách hàng sẽ không mất nhiều thời gian để tìm hiểu dự án thông qua các kênh trung gian mà có thể tiếp cận trực tiếp với chủ đầu tư. Điều này sẽ giúp cho thông tin mà những chủ thể này có được bảo đảm tính khách quan và chính xác hơn. Thêm vào đó, những chi phí không cần thiết phát sinh trong quá trình hoàn thiện thủ tục, hồ sơ giao dịch cũng được giảm đi một cách đáng kể. Tuy nhiên, trên thực tế, tính hiệu quả của mô hình sàn giao dịch bất động sản dường như không được phát huy. Biểu hiện:
Một là, chức năng chủ yếu của sàn giao dịch bất động sản hiện nay là kinh doanh dịch vụ bất động sản. Theo thống kê, trên phạm vi cả nước có khoảng 1.600 sàn giao dịch bất động sản được thành lập và hoạt động. Nhưng hầu hết số lượng lớn các sàn giao dịch chỉ thực hiện việc quảng cáo, môi giới các dự án bất động sản của chủ đầu tư mà chưa thực sự phát huy hết được chức năng đầy đủ của mình. Hoạt động giám sát, quản lý từ phía cơ quan nhà nước còn hạn chế khiến cho công tác đánh giá năng lực, chất lượng hoạt động của các sàn giao dịch chưa hiệu quả.
Hai là, các giao dịch bất động sản không bắt buộc thực hiện qua sàn khiến cho vấn đề quản lý từ phía các cơ quan nhà nước gặp không ít khó khăn. Theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, hoạt động mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng bắt buộc phải thực hiện thông qua sàn giao dịch bất động sản. Nhiều chủ thể cho rằng quy định này đã xâm phạm đến quyền tự do kinh doanh của mình. Việc thực hiện giao dịch thông qua sàn giao dịch bất động sản đã không còn là quy định bắt buộc với các chủ thể kinh doanh theo Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014. Chính điều này đã khiến không ít các dự án “ma” có điều kiện được hình thành, các vụ việc lừa đảo khách hàng đến từ những sai phạm của phía chủ đầu tư. Các giao dịch không thực hiện thông qua sàn cũng đã khiến cho Nhà nước dường như khó có thể kiểm soát được đối với loại thị trường này, tình trạng trốn tránh nghĩa vụ tài chính xảy ra nhiều gây thất thoát số tiền không hề nhỏ đối với ngân sách nhà nước. Với khách hàng, họ mất đi một kênh thông tin quan trọng cung cấp các vấn đề pháp lý về dự án bất động sản.
Ba là, điều kiện thành lập sàn giao dịch bất động sản chưa phù hợp. Sàn giao dịch bất động sản là một hình thức doanh nghiệp, hoạt động liên quan trực tiếp tới thị trường bất động sản - một trong những thị trường đặc thù về đối tượng tham gia giao dịch, về giá trị của giao dịch được thực hiện. Tuy nhiên hiện nay, pháp luật không quy định về mức vốn điều lệ đối với sàn giao dịch bất động sản. Thêm vào đó, trình tự và thủ tục giao dịch được diễn ra tại sàn được tiến hành như thế nào cũng đang là một khoảng trống pháp lý. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ với quyền và lợi ích của các bên chủ thể tham gia.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, điều kiện thành lập sàn giao dịch bất động sản chỉ cần có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản trong đó có người quản lý và điều hành. Điều này thực sự không phù hợp với nhiều mô hình hoạt động của sàn giao dịch trên thực tế. Thông thường, sàn giao dịch có bình quân từ 30 đến 50 nhân viên; với những sàn có quy mô lớn thì số lượng nhân viên có thể lên tới 200 hoặc 300 nhân viên. Với điều kiện chỉ cần 02 người có chứng chỉ hành nghề thực sự là một số lượng quá khiêm tốn với tổng số nhân sự thực có tham gia làm việc tại sàn giao dịch bất động sản.
Bốn là, các sàn giao dịch “bắt tay” với nhau “thổi giá” bất động sản gây ảnh hưởng tới quyền lợi của khách hàng, gây xáo trộn thị trường bất động sản. Thực trạng này xuất phát từ một số lý do cơ bản: (i) số lượng các bất động sản khan hiếm trên thị trường do nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng, quỹ đất quốc gia lại có hạn; (ii) nguồn lực tài chính đầu tư vào các dự án bất động sản còn ít và không bền vững, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn vay tại các tổ chức tín dụng; (iii) thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản chưa bảo đảm tính minh bạch, thiếu cơ sở pháp lý; (iv) đội ngũ tham gia môi giới bất động sản còn yếu về năng lực chuyên môn, hạn chế về đạo đức nghề nghiệp. Tất cả đã dẫn tới sự thiếu chuyên nghiệp trong công việc, làm ăn “chụp giật” tại các sàn giao dịch, không dám đứng ra chịu trách nhiệm nên đã khiến cho quyền lợi của khách hàng bị ảnh hưởng không ít.
Một số kiến nghị hoàn thiện mô hình sàn giao dịch bất động sản ở Việt Nam
(1) Nên quy định các giao dịch bất động sản bắt buộc phải thực hiện thông qua sàn giao dịch bất động sản. Chủ đầu tư thực hiện các hoạt động mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng bắt buộc phải thực hiện thông qua sàn. Cùng với đó, cần thiết bổ sung thêm các quy định liên quan tới cơ chế kiểm soát các giao dịch được thực hiện trên sàn về công khai giá bất động sản, trình tự và thủ tục thực hiện các giao dịch, các phí dịch vụ có liên quan,…
(2) Quy định thêm điều kiện hoạt động của sàn giao dịch bất động sản. Bên cạnh những điều kiện đã có trong pháp luật hiện hành, đối với sàn giao dịch bất động sản cần có sự bổ sung thêm về: năng lực tài chính để doanh nghiệp thành lập sàn giao dịch bất động sản; điều kiện về năng lực và trình độ chuyên môn của các nhân viên làm việc tại sàn bắt buộc phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất sản; bổ sung thêm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của sàn giao dịch bất động sản; quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản.
(3) Đối với các loại bất động sản được đưa ra giao dịch tại sàn cần thiết phải quy định những điều kiện cụ thể. Đối với yêu cầu này, trước hết các cơ quan chức năng có liên quan trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm công bố công khai các thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch phát triển nhà ở; các thông tin về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; công bố công khai thông tin về các doanh nghiệp kinh doanh sàn giao dịch bất động sản đủ điều kiện,… để bảo đảm tính minh bạch, ngăn chặn các hiện tượng lừa đảo, đầu cơ nâng giá bất động sản nhằm mục đích thu lợi bất chính. Từ đó, loại bất động sản cũng như điều kiện của bất động sản được đưa ra kinh doanh trên sàn cũng sẽ phải bảo đảm được tính công khai và minh bạch.
(4) Nâng mức xử phạt vi phạm hành chính có liên quan đến các sai phạm của các chủ thể trong mô hình sản giao dịch bất động sản. Nghị định 16/2022/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28/01/2022 quy định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng mới có hiệu lực trên thực tế là cơ sở pháp lý để xử lý hành vi vi phạm của các chủ thể có sai phạm trong hoạt động kinh doanh bất động sản nói chung cũng như kinh doanh dịch vụ bất động sản nói riêng. Mặc dù mức phạt hiện tại đã được nâng lên so với quy định của pháp luật trước kia, nhưng nếu so sánh số tiền bị phạt với những lợi ích các chủ thể có được thông qua sai phạm thì vẫn còn là những con số chênh lệch khá lớn. Ví dụ: trường hợp với bất động sản được đưa lên sàn giao dịch không đủ điều kiện theo quy định thì mức phạt tiền được áp dụng từ 200.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng. Thực sự, mức phạt này không đáng là bao nhiêu so với những khoản lợi ích mà chủ thể kinh doanh thu về được từ cả một dự án bất động sản, chưa kể tới trường hợp họ cố tình đẩy giá của bất động sản lên cao. Bởi vậy, không ít các chủ thể kinh doanh hiện nay đang có tâm lý “chấp nhận nộp phạt để được vi phạm”. Điều này gây ảnh hưởng không hề nhỏ tới tính minh bạch của thị trường bất động sản, thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khách hàng, đồng thời tác động tới quá trình quản lý của Nhà nước nói chung. Do vậy, cần xem xét tăng thêm mức xử phạt vi phạm cũng như bổ sung thêm hình thức xử phạt bổ sung theo hướng kéo dài thời hạn đình chỉ hoạt động từ 03 đến 24 tháng theo quy định hiện nay hoặc buộc chấm dứt hoạt động với những trường hợp có hành vi sai phạm nghiêm trọng.
Mô hình sàn giao dịch bất động sản thực sự là một trong những biện pháp kinh doanh hiệu quả góp phần làm cho thị trường bất động sản được vận hành trong khuôn khổ, bảo đảm được tính minh bạch cũng như hiệu quả trong công tác quản lý từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để hình thức này thực sự phát huy hết vai trò và chức năng của mình thì việc sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan là điều kiện tiên quyết mà các chủ thể xây dựng pháp luật cần chú trọng.
(1) Khoản 6 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014. (2) Khoản 2 Điều 22, khoản 2 Điều 28, khoản 3 Điều 33 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006. |
THẠC SĨ BÙI HỒNG NHUNG
KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ, TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Các nguyên tắc hiến định về quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự
4. Ngăn chặn bạo lực trẻ em: Không chỉ là phạt nặng!
(LSVN) - Liên quan đến dự án Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi), vừa được Bộ VH-TT&DL thay mặt Chính phủ trình UBTV Quốc hội nhận định bên cạnh những kết quả đạt được, bạo lực gia đình vẫn còn là một vấn đề nhức nhối, nan giải ở Việt Nam. Kết quả điều tra quốc gia cho thấy cứ 03 phụ nữ thì có gần 01 người (32%) bị chồng bạo lực thể xác hoặc bạo lực tình dục, đặc biệt là tình trạng nhiều trẻ em bị xâm hại, bạo hành từ chính người thân, gia đình của các em.
![]()
Ảnh minh họa.
Để giải quyết vấn đề bạo lực gia đình, nhiều ý kiến cho rằng nên có chế tài nghiêm khắc hơn và xử lý nghiêm các vụ vi phạm để làm gương, răn đe về sau... Tuy nhiên, theo ý kiến cá nhân, tôi cho rằng nếu chỉ phạt nặng các hành vi vi phạm là chưa đủ để phòng ngừa, ngăn chặn, chấm dứt tình trạng bạo lực gia đình, nhất là bạo lực đối trẻ em đang ngày càng nghiêm trọng, phức tạp.
Minh chứng là nhiều vụ bạo lực gia đình, nhất là các vụ xâm hại, bạo lực đối với trẻ em, dù những kẻ phạm tội bị xử phạt rất nặng, thậm chí tử hình nhưng tình trạng này không giảm mà vẫn có chiều hướng gia tăng hết sức nghiêm trọng trong thời gian gần đây. Do đó, cơ quan chức năng cần triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, với sự vào cuộc của nhiều cơ quan liên quan, nâng cao trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao từ phía gia đình, nhà trường và xã hội.
Trước hết, phải tập trung nguồn lực để nâng cao nhận thức, kiến thức pháp luật về quyền trẻ em của toàn xã hội trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, nhất các gia đình đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em. Trong đó, chú trọng việc thay đổi nhận thức về việc giáo dục trẻ em theo kiểu "thương cho roi vọt" đã tồn tại trong suy nghĩ của nhiều người xưa nay thành giáo dục dựa trên tình thương, trách nhiệm. Tuyệt đối đảm bảo quyền trẻ em và không thực hiện bất cứ hành vi bạo lực nào đối với trẻ em trong mọi trường hợp.
Tiếp đó, tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn liên quan đến việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em cho các ông bố, bà mẹ và toàn bộ các thành viên trong gia đình bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng đến việc phát tờ rơi, tờ gấp đến tận nhà, niêm yết các thông tin về quyền trẻ em tại nơi công cộng, điểm sinh hoạt cộng đồng của khu dân cư, thôn, làng, tổ dân phố...
Bên cạnh đó, có cơ chế và thiết lập kênh liên lạc khẩn cấp, thường xuyên để trẻ em có thể tự liên hệ trực tiếp với cơ quan chức năng nhằm bảo vệ chính mình khi bị bạo hành, xâm hại. Bởi hiện nay với sự phát triển của công nghệ thông tin thì việc trẻ em liên lạc trực tiếp với cơ quan chức năng là rất khả quan, dễ dàng thực hiện được. Vì vậy, nên có tổng đài phục vụ 24/24 để tiếp nhận thông tin, xử lý, tư vấn, nhất là các cuộc gọi cầu cứu của trẻ em để kịp thời giải quyết các vụ bạo hành trẻ em nếu có.
Thậm chí, các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ trẻ em cần thống kê, nắm bắt số liệu trẻ em tại các gia đình và định kỳ liên lạc hỗ trợ các em, nhất là các trẻ em sống với mẹ kế, bố dượng hoặc các em mồ côi sống chung với người thân để giúp đỡ, phòng ngừa, hạn chế tối đa tình huống xấu có thể xảy ra.
Ngoài ra, nâng cao trách nhiệm của nhà trường, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giáo dục quyền trẻ em, định hướng phát triển thể chất, tinh thần cho các em. Đặc biệt, nhà trường nên tổ chức nhiều buổi học ngoại khóa nhằm trang bị kiến thức, hướng dẫn kỹ năng tự bảo vệ mình cho các em nhằm giúp các em có thể tự bảo vệ mình trước các vụ xâm hại, bạo lực, nhất là vụ việc xuất phát từ chính người thân trong gia đình các em.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
5. Các bước thực hiện thủ tục giao nhận con nuôi nước ngoài trong bối cảnh dịch Covid-19
(LSVN) - Bộ Tư pháp vừa ban hành Công văn 1043/BTP-CCN ngày 05/4/2022 về việc thực hiện thủ tục giao nhận con nuôi nước ngoài trong bối cảnh dịch Covid-19. Trong đó quy định rõ các bước thực hiện thủ tục giao nhận con nuôi nước ngoài trong bối cảnh dịch Covid-19.
![]()
Ảnh minh họa.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh tại Công văn số 698/VPCP- QHQT về việc phương án giao nhận con nuôi cho người nước ngoài trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 của Văn phòng Chính phủ ngày 27/01/2022, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ: Công an, Quốc phòng, Ngoại giao, Y tế, Giao thông vận tải và Lao động, Thương Binh và Xã hội xây dựng, ban hành “Quy trình giao nhận con nuôi nước ngoài trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19” trên cơ sở các quy định tại các văn bản hiện hành để hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương, cá nhân, tổ chức có liên quan triển khai thực hiện.
Cụ thể, hướng dẫn này quy định rõ quy trình giao nhận trẻ em làm con nuôi nước ngoài được thực hiện như sau:
- Bước 1: Thông báo cho người nhận con nuôi đến Việt Nam để nhận con nuôi;
- Bước 2: Trên cơ sở văn bản thông báo của Sở Tư pháp, cha mẹ nuôi nước ngoài có văn bản đề nghị hoàn tất thủ tục nuôi con nuôi nước ngoài, gửi Sở Tư pháp nơi giải quyết thủ tục cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài;
- Bước 3: Phê duyệt (bảo lãnh) danh sách cha mẹ nuôi được nhập cảnh Việt Nam để nhận con nuôi;
- Bước 4: Cấp thị thực nhập cảnh vào Việt Nam cho cha mẹ nuôi nước ngoài tại cửa khẩu;
- Bước 5: Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức lễ giao nhận con nuôi;
- Bước 6: Cha mẹ nuôi nhập cảnh Việt Nam, di chuyển nội địa tại Việt Nam, thực hiện việc tự theo dõi sức khỏe, tuân thủ các yêu cầu phòng chống dịch Covid-19 theo quy định;
- Bước 7: Tổ chức lễ giao nhận con nuôi;
- Bước 8: Thực hiện chứng nhận lãnh sự đối với các giấy tờ về nuôi con nuôi do cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cấp, phục vụ cho việc xin cấp thị thực xuất cảnh cho trẻ em được nhận làm con nuôi;
- Bước 9: Cấp Hộ chiếu cho trẻ em được nhận làm con nuôi;
- Bước 10: Cấp thị thực xuất cảnh cho trẻ em được nhận làm con nuôi;
- Bước 11: Cấp Giấy chứng nhận việc nuôi con nuôi nước ngoài;
- Bước 12: Xuất cảnh rời Việt Nam.
Công văn cũng nên rõ, không áp dụng Bước 2, 3 và 4 đối với trường hợp cha mẹ nuôi nước ngoài thuộc diện được miễn thị thực nhập cảnh vào Việt Nam hoặc đã có giấy tờ nhập cảnh hợp lệ (thẻ thường trú, thẻ tạm trú …).
Bộ Tư pháp đề nghị UBND các tỉnh/thành phố chỉ đạo Sở Tư pháp và các Sở, ngành liên quan triển khai thực hiện thủ tục giao nhận trẻ em Việt Nam được giải quyết cho làm con nuôi (quy định tại Điều 37 của Luật Nuôi con nuôi) theo “Hướng dẫn quy trình giao nhận trẻ em làm con nuôi nước ngoài trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19”.
HỒNG HẠNH
Tăng cường công tác hòa giải, đối thoại theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
6.

