/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Thực trạng và phương hướng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát trong hoạt động tố tụng hình sự tại Việt Nam

Thực trạng và phương hướng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát trong hoạt động tố tụng hình sự tại Việt Nam

25/11/2023 07:11 |

(LSVN) - Kiểm tra, giám sát trong hoạt động tố tụng hình sự hiện nay là vấn đề cấp thiết, nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng. Thực tế hiện nay, các cơ quan thực hiện cơ chế đã có những hoạt động nhằm thực hiện nguyên tắc này. Tuy nhiên việc xác định chức năng, nhiệm vụ của giám sát, kiểm tra hoạt động tố tụng chưa được quy định cụ thể do đó vấn còn tình trạng không đi sâu và để xảy ra sai sót. Bài viết tập trung phân tích nội dung, nêu ra được mốt số thực trạng và đề xuất kiến nghị đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát trọng hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) tại Việt Nam hiện nay.

Ảnh minh họa.

1. Nguyên tắc giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)

Việc giám sát, kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến tố tụng, người tiến hành tố tụng là nguyên tắc cơ bản, được quy định trong luật TTHS Việt Nam tại Chương 2 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Nguyên tắc này khẳng định việc kiểm tra, giám sát hoạt động trong TTHS là cần thiết và trở thành phương châm, định hướng của hoạt động TTHS. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải chịu sự giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử nhằm bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; bảo đảm cho hoạt động TTHS được tiến hành đúng pháp luật không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, làm cho hoạt động TTHS thực sự trở thành phương tiện của Nhà nước đấu tranh phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Nguyên tắc này bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, chủ thể của quyền giám sát hoạt động TTHS quy định tại khoản 2 Điều 33 BLTTHS. Những chủ thể này có thể được phân chia thành 2 loại:

Một là, giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Hai là, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Đối với các cơ quan Nhà nước và đại biểu dân cử có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng xem xét giải quyết và phải trả lời yêu cầu đối với các vi phạm trong hoạt động TTHS. Còn đối với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong trường hợp phát hiện thấy hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án chỉ có quyền kiến nghị đến các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) có thẩm quyền xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị đó. Như vậy, ở đây đã có sự phân biệt trong việc thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động TTHS giữa cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội theo hướng thiên về các cơ quan Nhà nước.

Theo quy định, tất cả các cơ quan nhà nước bao gồm cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng dân các cấp), các cơ quan quản lý (Chính phủ, các Bộ ngành, Ủy ban nhân dân các địa phương) đều có quyền giám sát hoạt động TTHS nhưng thực tế cho thấy giám sát của cơ quan dân cử nhất là Quốc hội đối với hoạt động TTHS đậm nét hơn cả. Các hình thức giám sát đối với hoạt động TTHS của các cơ quan nhà nước khác, của các tổ chức chính trị - xã hội tùy theo tính chất của từng loại cơ quan, tổ chức pháp luật có quy định riêng.

Thứ hai, nội dung giám sát đối với hoạt động TTHS là xem xét việc có hay không tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nội dung khái quát này được thể hiện ở những khía cạnh như:

- Hoạt động khi tiến hành tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có tuân thủ đúng các quy định của pháp luật không?

- Các quyền tự do, dân chủ cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân có được tôn trọng trong quá trình giải quyết vụ án hay không?

- Có làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm không?

- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTHS.

Thứ ba, hậu quả của hoạt động giám sát trong TTHS. Tùy theo chủ thể của việc thực hiện quyền giám sát mà hậu quả giám sát có thể là:

- Yêu cầu khắc phục, sửa chữa những vi phạm pháp luật;

- Trực tiếp hủy bỏ hoặc kiến nghị, đề nghị, yêu cầu hủy bỏ một số hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật, nghị quyết trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị trả lời chất vấn;

- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh tư pháp thuộc thẩm quyền bầu hoặc phê chuẩn của Quốc hội.

2. Giám sát đối với hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng

2.1. Đối với Viện Kiểm sát

Quyền giám sát của Viện Kiểm sát trong TTHS được thông qua chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHS. Viện Kiểm sát theo quy định của pháp luật có hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Như vậy, trong hoạt động TTHS, Viện Kiểm sát vừa là đối tượng của quyền giám sát của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội khi tiến hành chức năng thực hành quyền công tố trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời là chủ thể của quyền giám sát đối với hoạt động TTHS.

Bên cạnh chức năng thực hành quyền công tố trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHS còn là một bảo đảm cho yêu cầu tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mục đích của việc kiểm sát tuân theo pháp luật TTHS là phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Phạm vi của việc kiểm sát tuân theo pháp luật TTHS được xác định từ khi có tin báo và tố giác về tội phạm (giai đoạn khởi tố vụ án hình sự) đến giai đoạn thi hành án, bằng các biện pháp của BLTTHS như: Phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, huỷ bỏ các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, tự mình tiến hành một số hoạt động hoặc ra các quyết định cần thiết trong việc giải quyết vụ án, kháng nghị các bản án và quyết định của Tòa án,... quyền hạn và trách nhiệm của Viện Kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tuân thủ đúng pháp luật, loại trừ các vi phạm pháp luật của các cá nhân và tổ chức góp phần vào việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.

2.2. Đối với Tòa án

Tòa án có vai trò quan trọng trong việc giám sát quyền lập pháp và hành pháp. Trong hoạt động TTHS, Tòa án cũng thể hiện vai trò giám sát thông qua chức năng giám đốc hoạt động xét xử. Quy định nguyên tắc giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới nhằm phát hiện khắc phục sai lầm của các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Giám đốc xét xử là việc Tòa án cấp trên kiểm tra tính đúng đắn về hoạt động xét xử của Toà án cấp dưới. Trong thực tiễn xét xử do những lý do khác nhau Toà án cấp dưới có những sai lầm, thiếu xót trong quá trình giải quyết vụ án, vì vậy việc giám đốc của Toà án cấp trên nhằm khắc phục những sai lầm thiếu xót đó là cần thiết, góp phần vào bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý công minh, không để lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội.

3. Một số đánh giá về thực trạng cơ chế kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự

Thứ nhất, hệ thống kiểm tra giám sát trong TTHS khá phức tạp bao gồm hai bộ phận lớn: các cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài TTHS (giám sát từ các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội) và giám sát từ bên trong TTHS (giám sát của Viện Kiểm sát và của Tòa án).

Thứ hai, pháp luật về giám sát kiểm tra hiện nay chưa được quy định cụ thể, chưa có tính thống nhất. Giám sát trong hoạt động tố tụng chỉ dừng lại ở nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS dẫn đến việc triển khai thực hiện khó khăn.

Thứ ba, việc giám sát, kiểm tra của một số cơ quan còn mang tính dàn trải, thiếu tập trung chỉ dựa trên các văn bản có liên quan mà chưa thực sự sử dụng các kênh thông tin chính thống hoặc chưa có sự vào cuộc mạnh mẽ để làm sáng tỏ vấn đề giám sát, kiểm tra.

Thứ tư, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát có lúc chưa đi vào cụ thể, và chỉ mang tính hình thức. Bỏ qua nhiều lỗi nhỏ nhưng đã đủ điều kiện để làm thay đổi tính chất của sự việc.

Nguyên nhân của hiện trạng này có nhiều nhưng quan trọng nhất vẫn là chưa xây dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát thích hợp trong TTHS nói riêng và cơ chế giám sát quyền lực Nhà nước nói chung, còn thiếu những thiết chế kiểm tra, giám sát ở những khâu trọng điểm.

4. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát trong tố tụng hình sự

Chiến lược cải cách tư pháp đã khẳng định: “Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp đặc biệt là lãnh đạo các cơ quan tư pháp”. Trên cơ sở định hướng này việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động TTHS phải bảo đảm những yêu cầu sau:

Thứ nhất, cơ chế kiểm tra giám sát trong TTHS phải bảo đảm việc thực thi quyền lực nhân dân một cách tốt nhất trên cơ sở tính tối cao và hiệu lực tối cao của Hiến pháp.

Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của quyền lực và sự phân công rành mạch giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ ba, cơ chế kiểm soát quyền lực phải bảo đảm tư pháp độc lập nhằm bảo vệ tự do, bình đẳng và quyền con người .

Thứ tư, với những yêu cầu này việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát trong TTHS có những nội dung bổ sung quyền giám sát trực tiếp của người dân và công luận đối với hoạt động TTHS mà cơ chế kiểm tra, giám sát đối với hoạt động TTHS hiện hành chưa có.

ĐẶNG ĐÌNH THÁI

Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 4

Bùi Thị Thanh Loan