Theo báo cáo mới nhất của tổ chức SHTT thế giới - WIPO về xu hướng đổi mới và bối cảnh IP toàn cầu, những năm gần đây, mỗi năm có 23 triệu đơn đăng ký SHTT - Như vậy mỗi phút trôi qua, toàn cầu có khoảng 40 phát minh hoặc sáng chế, trong đó 70% hồ sơ hiện có nguồn gốc từ Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh, trong khi khối lượng hồ sơ từ Châu Âu/Bắc Mỹ vẫn ổn định. Điều này chỉ ra rằng khối các nước đang phát triển ngày càng hỗ trợ các cá nhân, tổ chức đổi mới sáng tạo trong nước. Cũng theo báo cáo này, thế giới đang bùng nổ đầu tư vào tài sản vô hình, sự chuyển dịch đầu tư trải dài trên các lĩnh vực từ kinh tế số, kinh tế tri thức và kinh tế sáng tạo. Hiện nay giá trị tài sản vô hình toàn cầu ước tính đạt 70 nghìn tỷ USD, tương đương với quy mô của 4 đến 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới cộng lại.
Tại Việt Nam, trong các Nghị quyết TƯ gần đây, như Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/05/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân không đề cập trực tiếp đến tiền mã hóa. Tuy nhiên, nội dung của Nghị quyết 68 có nêu chủ trương tạo cơ chế thử nghiệm đối với những ngành, lĩnh vực mới như tiền ảo, tài sản mã hóa, tiền mã hóa, thương mại điện tử dựa trên hậu kiểm và phù hợp với thông lệ quốc tế. Nghị quyết cũng nhấn mạnh việc rà soát, hoàn thiện khung pháp lý, chính sách về dữ liệu để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Mặc dù không có những nội dung trực tiếp, nhưng Nghị quyết số 68 là cơ sở để thành lập các cơ chế thử nghiệm mới có các giao dịch tiền mã hóa, xây dựng khung pháp lý, chính sách để quản lý loại tài sản vô hình mới này. Trên cơ sở đó, Luật Công nghiệp công nghệ số được thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2025 có hiệu lực từ 01/01/2026 được xem là một bước tiến lớn trong việc quy định và làm rõ về vấn đề “tài sản số” nhưng dường như vấn đề “tiền số, tiền mã hoá” vẫn còn đang bỏ ngỏ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định tầm nhìn đến năm 2045, Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/01/2024 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế thể hiện sự nhất quán trong chỉ đạo của Đảng đối với việc đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, ứng dụng công nghệ mới, hướng tới hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật để thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định nhiệm vụ “Khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Cùng nội dung trên, tại buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về mục tiêu tăng trưởng kinh tế vào ngày 28/02/2025, Tổng Bí thư đã chỉ đạo “cần nghiên cứu áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) để thành lập sàn giao dịch cho tài sản số”.
Tại Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 07/02/2025 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01/2025, Chính phủ giao Bộ Tài chính “Khẩn trương hoàn thiện hồ sơ trình về đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh 2 “tài sản số” (“tài sản ảo”, “tài sản mã hóa”), quản lý các giao dịch liên quan đến “tài sản số” (“tài sản ảo”, “tài sản mã hóa”) theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 424/QĐ-TTg ngày 16 tháng 5 năm 2024, chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại các văn bản số: 4152/VPCP-KTTH ngày 15 tháng 10 năm 2024, 4452/VPCP-KTTH ngày 04/11/2024, 313/VPCP-KTTH ngày 23 tháng 01 năm 2025 của Văn phòng Chính phủ và các văn bản có liên quan, không để tiếp tục chậm trễ” (Mục 3.i Phụ lục).
Tại Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính “trình Chính phủ ngay trong tháng 3 năm 2025 về khung pháp lý quản lý, thúc đẩy phát triển tài sản số, tiền kỹ thuật số lành mạnh và hiệu quả” (Mục II.2.c).
Ngày 23/02/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 194/QĐ- TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, trong đó giao Bộ Tài chính và các Bộ, ngành xây dựng khung pháp lý đối với tài sản mã hóa và các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản mã hóa và chứng minh việc thực thi khung pháp lý đó (thời hạn hoàn thành là tháng 5/2025).
Trên cơ sở chỉ đạo của Thường trực Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngày 03/3/2025 về việc hoàn thiện khung khuôn khổ pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền ảo, tài sản mã hóa, tiền mã hóa, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 81/TB-VPCP ngày 06/3/2025, trong đó Thủ tướng Chính phủ kết luận trường hợp có vấn đề quan trọng, nhạy cảm cần báo cáo Bộ Chính trị trước 20/3/2025 và báo cáo Chính phủ xem xét, ban hành trong tháng 3/2025.
Với tư cách là tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả và quyền liên quan - Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam (Vietrro) được pháp luật Việt Nam công nhận và quy định chức năng, nhiệm vụ theo Điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi 2022). Vietrro là thành viên chính thức của Liên đoàn Quốc tế các Tổ chức Quyền sao chép (IFRRO) và tổ chức duy nhất tại Việt Nam được kết nối với hệ thống WIPO Connect của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO), đảm bảo việc bảo hộ và xác thực nguồn gốc xuất xứ một cách hợp pháp tài sản trí tuệ, tài sản số của các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam cũng như trên phạm vi toàn cầu. Trực thuộc Vietrro - Trung tâm Pháp luật và Tác quyền (Lecoce) có chức năng triển khai hoạt động ủy quyền, cấp phép, thu - phân phối tiền bản quyền và phối hợp với các cơ quan chức năng xử lý vi phạm quyền sao chép. Lecoce đồng thời thực hiện tư vấn pháp lý, tập huấn và hỗ trợ tổ chức, cá nhân chuyển đổi số trong quản lý tài sản trí tuệ, tài sản số.
Bài tham luận này tập trung nghiên cứu về đồng tiền mã hóa, một loại sản phẩm công nghệ mới trên các phương diện của một tài sản vô hình, đây hứa hẹn là một kênh để huy động nguồn lực rất tiềm năng phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên số, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho loại tài sản này.
1. Khái niệm, đặc điểm về tiền mã hóa
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tư số 37/2024/TT-BTC ngày 16/5/2024 của Bộ Tài chính về ban hành chuẩn mực thẩm định giá việt nam về thẩm định giá tài sản vô hình thì tài sản vô hình được hiểu là tài sản không có hình thái vật chất nhưng có khả năng tạo ra các quyền và lợi ích kinh tế, tự biểu hiện thong qua các đặc tính kinh tế. Tài sản vô hình bao gồm: (1) Tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ; (2) Quyền mang lại lợi ích kinh tế đối với các bên được quy định cụ thể tại hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật ví dụ như quyền thương mại, quyền khai thác khoáng sản; (3) Các mối quan hệ phi hợp đồng mang lại lợi ích kinh tế cho các bên, các mối quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp hoặc các chủ thể khác, ví dụ như danh sách khách hàng, cơ sở dữ liệu. và (4) Các tài sản vô hình khác thỏa mãn điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 1 của chuẩn mực của Thông tư số 37. Một loại tài sản được coi là tài sản vô hình khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây: bằng chứng hữu hình về sự tồn tại của tài sản vô hình; Có khả năng tạo thu nhập từ tài sản vô hình; Giá trị của tài sản vô hình có thể định lượng được bằng tiền.
Tài sản số theo quy định tại Điều 46 Luật Công nghiệp công nghệ là tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác định bởi công nghệ số trên môi trường điện tử. Tài sản số bao gồm tài sản ảo, tài sản mã hóa và tài sản số khác. Tài sản mã hóa là một loại tài sản số sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số có chức năng tương tự để xác thực đối với tài sản trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao.
Tuy nhiên, Luật Công nghiệp công nghệ số chưa có đưa ra phân loại các tài sản mã hóa, khái niệm về tiền mã hóa vẫn còn đang bỏ ngỏ. Tuy nhiên, phân tích một số khái niệm về tiền mã hóa của một số tổ chức trên thế giới. Ngân hàng Trung ương Châu Âu ECB làm rõ khái niệm của tiền ảo là một giá trị số, không phải do Ngân hàng trung ương hay các tổ chức tín dụng phát hành, trong một số trường hợp có thể được sử dụng như một phương tiện thanh toán thay cho tiền pháp định.[1] Cục Phòng chống tội phạm tài chính Mỹ FinCEN định nghĩa tiền ảo là một phương tiện trao đổi có chức năng tương tự như tiền pháp định trong một số tình huống mặc dù nó không hoàn toàn có đầy đủ các đặc trưng của đồng tiền thật.[2] FinCEN xác định rằng tiền ảo hoạt động như một hình thức trao đổi tương tự đồng tiền trong một số trường hợp, nhưng lại thiếu nhiều thuộc tính của tiền tệ thực. Văn phòng trách nhiệm Chính phủ Mỹ GAO cũng tương tự với FinCen và ECB, trong một nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa tiền ảo là một hình thức trao đổi số hóa, không phải do chính phủ các quốc gia ban hành. Tiền ảo có thể được sử dụng trong các cộng đồng riêng của mình, các bên tham gia cộng đồng tương tác với nhau nhờ có các thiết lập quy tắc chung của cộng đồng. Nghiên cứu của GAO cũng khẳng định tiền ảo có thể thay thế cho tiền tệ truyền thống trong các giao dịch trong một nền kinh tế. Từ việc nghiên cứu các định nghĩa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm nổi bật của tiền ảo như sau:
Một là, tiền mã hóa không tồn tại dưới dạng vật chất hay hữu hình trong thực tế. Thay vào đó, tiền mã hóa hiện diện dưới dạng kỹ thuật số trên không gian mạng, cho phép người dùng thực hiện giao dịch và lưu trữ tài sản một cách thuận tiện và linh hoạt. Điều này đồng nghĩa với việc tiền mã hóa có thể được chuyển giao nhanh chóng qua internet mà không cần đến các phương tiện vật lý như tiền giấy hay đồng xu, tạo ra sự tiện lợi và hiệu quả trong các hoạt động tài chính và thương mại.
Hai là, tiền mã hóa không phải là đồng tiền được phát hành bởi Nhà nước, mà thường được phát hành bởi các cá nhân hoặc tổ chức tư nhân. Sự phát hành này thường diễn ra thông qua các quy trình như ICO (Initial Coin Offering) hoặc mining, tạo ra một môi trường đa dạng và phong phú cho các loại tiền mã hóa khác nhau.
Ba là, giá trị của tiền mã hóa không phải được xác định theo mệnh giá giống như tiền pháp định. Giá trị của tiền mã hóa phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như ý chí của chủ thể phát hành, nhu cầu của thị trường. Điều này có nghĩa là, giá trị của tiền mã hóa có thể thay đổi nhanh chóng dựa trên những yếu tố như cung và cầu, sự chấp nhận của người dùng, cũng như các yếu tố kinh tế và tâm lý thị trường. Giá trị của tiền mã hóa có thể tăng hoặc giảm mạnh trong một khoảng thời gian ngắn, tạo ra thu nhập cho chủ sở hữu đồng tiền này.
Bốn là, tiền mã hóa không được chính phủ các quốc gia công nhận là tiền thật, nhưng có giá trị sử dụng trong động đồng mạng nhất định. Điều đó có nghĩa là tiền mã hóa thường được xem như một công cụ để thực hiện các giao dịch trao đổi hoặc thanh toán cho các loại hàng hóa và dịch vụ trong không gian kỹ thuật số. Người dùng có thể sử dụng tiền mã hóa để mua sắm trực tuyến, tham gia vào các dịch vụ hoặc thậm chí đầu tư, nhưng không thể sử dụng nó để thực hiện các giao dịch chính thức trong nền kinh tế thực.
Năm là, các giao dịch thương mại hoặc giao dịch dân sự giữa các cá nhân tham gia giao dịch được thực hiện bằng tiền mã hóa thường có tính chất ẩn danh, khiến cho việc xác định danh tính của các bên tham gia trở nên khó khăn. Các chủ thể trong mối quan hệ này không biết rõ về nhau, mà chỉ tương tác thông qua mạng Internet. Do đó, tiền mã hóa có khả năng bị lợi dụng như một công cụ cho các hoạt động tội phạm như rửa tiền, buôn bán hàng cấm, trốn thuế và giao dịch những tài sản bất hợp pháp khác.
Như vậy, có thể nói rằng tiền mã hóa là một dạng tài sản vô hình, vì nó không tồn tại dưới dạng vật chất mà chỉ tồn tại trong không gian kỹ thuật số thông qua các hệ thống blockchain. Đồng tiền này có thể đổi Khác với tiền mặt hay các loại tài sản khác, tiền mã hóa như Bitcoin, Ethereum được lưu trữ, giao dịch và xác minh hoàn toàn qua mạng lưới phi tập trung. Tiền mã hóa không chỉ là một loại tài sản vô hình mà còn có khả năng tạo ra thu nhập cho người sở hữu thông qua nhiều hình thức như giao dịch mua bán, đầu tư dài hạn, khai thác (mining), hoặc tham gia các nền tảng tài chính phi tập trung (DeFi). Giá trị của tiền mã hóa có thể được định lượng rõ ràng bằng các loại tiền pháp định như USD, EUR hay VND thông qua tỷ giá thị trường. Mặc dù giá trị này biến động mạnh tùy thuộc vào cung cầu, tâm lý thị trường và chính sách toàn cầu, nhưng nó vẫn là cơ sở để người dùng xác định lợi nhuận hoặc rủi ro khi đầu tư. Việc không hiện hữu dưới dạng vật lý khiến tiền mã hóa khó bị làm giả, dễ dàng giao dịch xuyên biên giới và có tiềm năng ứng dụng cao trong nền kinh tế số. Tuy nhiên, vì là tài sản vô hình, tiền mã hóa cũng đối mặt với nhiều rủi ro như biến động giá lớn, thiếu sự bảo đảm pháp lý rõ ràng và dễ bị tội phạm mạng lợi dụng. Do đó, việc quản lý và sử dụng tiền mã hóa cần sự hiểu biết sâu sắc cũng như khung pháp lý phù hợp.
2. Khung pháp luật Việt Nam đối với tiền mã hóa hiện nay
Pháp luật Việt Nam đã có một bước tiến vượt bậc trong việc ghi nhận tài sản mã hóa là một loại tài sản theo pháp luật dân sự. Đây được xem là một bước tiến quan trọng vì nó thể hiện sự cởi mở của Việt Nam trong việc tiếp cận xu thế tài chính số toàn cầu, đồng thời từng bước đưa tài sản mã hóa vào khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ nhà đầu tư, ngăn chặn rủi ro và phòng chống các hành vi lợi dụng công nghệ để vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận tài sản mã hóa, chưa nêu chính xác cũng như phân loại về tài sản mã hóa có bao gồm tiền mã hóa hay không. Đồng thời, Việt Nam vẫn chưa quy định chính thức công nhận tiền mã hóa như một phương tiện thanh toán hợp pháp, nhưng việc xây dựng hành lang pháp lý phù hợp cho tài sản mã hóa đang là một hướng đi đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ. Thiếu sót này trong quy định của pháp luật dẫn đến các hệ quả tiếp theo là tiền ảo không thể được công nhận là hàng hoá để tính thuế theo luật thuế và không được coi là chứng khoán theo luật chứng khoán để điều chỉnh các hoạt động ICO liên quan đến tiền ảo, không thể xác định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản... Việc không có quy định cụ thể nhằm quản lý các hoạt động liên quan đến tiền ảo nói chung, hoạt động của các sàn giao dịch về tiền ảo nói riêng khiến cho thất thoát một lượng lớn các loại thuế, phí, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể đang thực hiện các hoạt động kinh doanh. Việc thiếu vắng các quy định pháp luật dẫn đến khó khăn cho cơ quan áp dụng và thi hành pháp luật khi giải quyết các vụ việc thực tế. Đồng thời chính điều này dẫn đến các tranh chấp liên quan tới tiền ảo trên thực tế không được giải quyết hoặc giải quyết không triệt để, gây ra một hệ quá rất xấu đối với cả về phía người sử dụng, doanh nghiệp kinh doanh và cả về phía Nhà nước.
2.1. Về hoạt động chào bán tiền ảo ra công chúng
Hiện tại, hoạt động chào bán tiền ảo ra công chúng ở Việt Nam được thực hiện thông qua việc huy động vốn bằng tiền ảo hoặc qua các sàn giao dịch tiền ảo và tài sản ảo giữa các bên. Các hoạt động này bao gồm kinh doanh, chuyển nhượng, góp vốn và huy động vốn đầu tư. Tuy nhiên, do thiếu khung pháp lý rõ ràng cho tiền mã hóa, nên vẫn chưa có quy trình cụ thể cho việc thành lập, đăng ký công ty, cấp mã số thuế, và các quy định liên quan đến hoạt động huy động vốn và giao dịch với loại tài sản này. Điều này dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám", khi nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực Blockchain tại Việt Nam phải đăng ký công ty ở nước ngoài, mặc dù họ hoạt động với trụ sở, công nghệ và nhân lực ở Việt Nam[3]. Hơn nữa, tiền mã hóa còn có thể được tạo ra thông qua hai phương thức là “Đào” hoặc “Phát hành”.
Do đó, cần bổ sung quy định về hoạt động chào bán tiền ảo ra công chúng theo hướng:
- Tiền ảo khi muốn phát hành ra công chúng phải là các loại tiền xác định được tình trạng pháp lý của các đồng tiền mã hóa được phát hành. Đồng thời nên có những quy định về phân loại các hoạt động chào bán tiền ảo thành từng loại hình riêng biệt dựa trên các tiêu cụ thể (mục đích, bản chất, tính chất của token được phát hành) để từ đó tạo thuận lợi cho việc quản lý.
- Cần bổ sung một cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động chào bán tiền ảo ra công chúng. Mọi hành vi chào bán tiền ảo đều phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Với các hành vi ICO không có đăng ký đều là không hợp pháp và chịu xử lý theo tùy theo từng mức độ. Các biện pháp hành chính hoặc hình sự đối với các chủ thể thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền ảo không đăng ký nhằm đảm bảo cho hoạt động chào bán tiền ảo đem lại hiệu quả cao nhất. Đây là một trong các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đầu tư vào tiền ảo. Đồng thời, việc quy định các quy định về đăng ký phát hành tiền ảo có thể giúp Nhà nước nắm rõ thông tin của các doanh nghiệp, tổ chức phát hành đồng tiền mới, từ đó làm một kênh thông tin để thu thập dữ liệu của người đầu tư vào tiền ảo, tiền mã hóa phục vụ cho các mục đích khác. Hơn nữa, quy định chi tiết về quy trình phát hành tiền mã hóa có thể giúp thu hút những nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế.
2.2. Ghi nhận tiền mã hóa là một phương thức thanh toán hợp pháp
Đối với việc ghi nhận tiền ảo là một phương thức thanh toán hợp pháp, Việt Nam cần phải nghiên cứu dài hơi và thận trọng; có thể cân nhắc việc thực hiện theo lộ trình để dần dần cập nhật đáp ứng thực tiễn thị trường tiền tệ trong nước; cụ thể như sau:
Giai đoạn 1: Chỉ nên dừng lại ở việc ghi nhận tiền ảo là một loại tài sản đặc biệt, các nhà lập pháp Việt Nam chưa nên ghi nhận đồng tiền này như một phương thức thanh toán. Mặc dù, tiền mã hóa mang rất nhiều lợi ích to lớn, thiết thực như thời gian thanh toán nhanh chóng, giảm chi phí giao dịch, không có sự tham gia của bên thứ ba là các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, thực tế bên cạnh những lợi ích này, rủi ro khi ghi nhận tiền ảo là một phương thức thanh toán lớn hơn rất nhiều; ví dụ như: tính ẩn danh, làm mất vị trí của Ngân hàng Nhà nước trong nền kinh tế. Bên cạnh lý do tới từ bản chất của tiền ảo, hiện nay sự phát triển của khoa học công nghệ ở Việt Nam cũng chưa thật sự đủ khả năng để quản lý, định danh mọi giao dịch để làm chứng từ thanh toán cũng như truy vết thanh toán. Sau này, khi có điều kiện tốt hơn về cơ sở vật chất cũng như các điều kiện khác để bảo đảm thực thi, có thể sửa đổi theo hướng ghi nhận tiền ảo là một loại phương thức thanh toán, cũng như nâng cao vai trò của Ngân hàng nhà nước trong việc quản lý phương thức thanh toán mới này.
Giai đoạn 2: Áp dụng thí điểm tiền ảo như một phương thức thanh toán trong một nhóm đối tượng và phạm vi không gian hạn chế.
Sau khi đã ghi nhận tiền ảo, tiền mã hóa là một loại tài sản nhằm mục đích bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tiền ảo, các nhà đầu tư cũng như những người tham gia vào giao dịch liên quan đến tiền ảo; cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam có thể xem xét việc ghi nhận Bitcoin – là loại tiền ảo được đánh giá an toàn nhất theo tiêu chuẩn quốc tế là một phương thức thanh toán hợp pháp trên các sản giao dịch tiền ảo do nhà nước kiểm soát. Hiện nay, Bộ Tài chính đã và đang xây dựng Nghị quyết của Chính phủ về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam cho thấy sự cởi mở của nhà nước đối với tiền mã hóa, là cơ hội tốt để thu hút các nhà đầu tư công nghệ thông tin. Thông qua quá trình thí điểm, các nhà làm luật sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý tiền ảo.
Giai đoạn 3: Công nhận tiền ảo là một phương tiện thanh toán hợp pháp
2.3. hoạt động mua bán, trao đổi, sử dụng và lưu thông tiền mã hóa
Ngoài ra, hoạt động mua bán, trao đổi, sử dụng và lưu thông tiền ảo được thực hiện trên các sàn giao dịch tiền ảo. Các giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử, trong đó các phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điên tử, kỹ thuật sốm từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc những công nghệ tương tự, sẽ được hiểu là các giao dịch điện tử. Theo các quy định này, giao dịch liên quan đến tiền ảo cũng là một trong các loại giao dịch được xác lập và thực hiện thông qua phương thức điện tử, cụ thể là thông qua môi trường kỹ thuật số. Do đó, về lý thuyết thì giao dịch liên quan đến tiền ảo cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Giao dịch điện tử năm 2023. Điều này được thể hiện rõ ràng hơn khi tại Điều 6 Luật này, khi liệt kê các hành vi bị cấm thì không có khoản nào cấm xác lập giao dịch liên quan đến tiền ảo thông qua phương tiện kỹ thuật số. Về cơ bản, giao dịch liên quan đến tiền ảo là giao dịch được thực hiện thông qua các thông điệp điện tử. Theo quy định của Luật Giao dịch điện tử, thông điệp dữ liệu được định nghĩa là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ thông qua các phương tiện điện tử. Cùng với đó, theo quy định của Luật này, thông tin trong thông điệp dữ liệu vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý, ngay cả khi nó được trình bày dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Tuy nhiên, để công nhận và kiểm soát tốt được giao dịch của đồng tiền ảo thì Việt Nam phải xây đựng được bộ tiêu chí, yêu cầu về cơ cấu vốn, điều kiện hoạt động của các sàn giao dịch, và các cá nhân, tổ chức nắm giữ tiền ảo. Trước hết, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài sản ảo cần phải là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, là cơ sở pháp lý để Nhà nước có thể quản lý mọi giao dịch tiền ảo từ gốc. Những điều kiện về vốn, cơ cấu đặc thù đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền ảo được đặt ra khi xây các quy định để quản lý các doanh nghiệp này. Hệ thống các tổ chức tín dụng thông thường nếu cung cấp dịch vụ thanh toán bằng tài sản mã hóa thì phải bổ sung những điều kiện bảo đảm thực hiện.
Bên cạnh các quy định về cơ cấu, tổ chức của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tiền mã hóa; các cơ chế bảo đảm tính minh bạch trong mọi giao dịch để xử lý các vấn đề diễn ra trong quá trình mua bán, lưu thông tiền mã hóa (nội dung giao dịch, hồ sơ giao dịch, đối tượng giao dịch, số lượng tiền giao dịch,…) cũng như các cơ chế báo cáo, kiểm toán định kỳ với Ngân hàng Nhà nước cũng phải được đề xuất nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi của người tiêu dùng, nâng cao tính an toàn cho các giao dịch.
2.4. Quy định về thuế
Đối với quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2013 và 2016): Do chưa có khung pháp lý cụ thể về các đồng tiền ảo nói chung, đồng Bitcoin nói riêng nên Việt Nam không thể thu thuế được đối với các giá trị tăng thêm này. Bởi vì, ở Việt Nam hiện nay, tiền ảo không được coi là một trong các loại tài sản trong dân sự, nên tiền ảo không được xác định là một trong các loại hàng hoá theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005: “Hàng hóa bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai”. Như vậy, để được xác định là hàng hoá trong Luật Thương mại năm 2005 thì trước hết tiền ảo phải được thừa nhận là tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, do chưa được thừa nhận là tài sản nên tiền ảo cũng không phải là hàng hoá nên không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng. Chính vì vậy, tiền ảo không phải là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng và người kinh doanh tiền ảo không phải nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008.
Đối với quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007, được sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014 và 2024 (sau đây gọi là Luật Thuế thu nhập cá nhân): Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân, thu nhập của cá nhân từ từ kinh doanh phải chịu thuế bao gồm: Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. Như đã phân tích ở trên, tiền ảo không được xác định là hàng hoá, dịch vụ nên thu nhập có được từ việc kinh doanh tiền ảo không thuộc đối tượng chịu thuế theo Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Đới với quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2013, 2014 và 2016 (sau đây gọi là Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp): Theo quy định tại Điều 3 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm “Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác quy định tại khoản 2 Điều này”.
Khi tiền mã hóa được công nhận là một loại tài sản thì theo quy định của Luật Dân sự, là cơ sở để tiến hành thu thuế đối với các thu nhập có liên quan đến tiền mã hóa. Tuy nhiên, yêu cầu đặt ra với Nhà nước và các cơ quan thuế là phải đưa ra những quy định để làm sao quản lý được lĩnh vực này một cách hiệu quả. Việt Nam cần bổ sung các quy định về thu thuế đối với các hoạt động liên quan đến tiền ảo và các quy định này cần tập trung vào các vấn đề sau đây:
Về thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là “thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”[4], là loại thuế được cộng thêm vào giá bán của các loại hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng phải thanh toán khi sử dụng hàng hóa dịch vụ đó. Tuy nhiên, hiện nay các chủ sở hữu ở tiền mã hóa mới chỉ dùng lại ở việc đầu tư, sở hữu tiền ảo với các mục đích sinh lời, hoặc dùng như một phương thức thanh toán; chứ không phải là một loại hàng hóa mang tính tiêu dùng. Như vậy, pháp luật Việt Nam cũng giống với các nước trên thế giới, không cần quy định về thuế giá trị gia tăng đối với loại tài sản này.
Về thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp
Thứ nhất, phạm vi các hoạt động liên quan đến tiền ảo bị tính thuế: Tương tự như thu nhập về đầu tư vốn ở các nước trên thế giới, việc mua bán chuyển nhượng tiền mã hóa có thể được xếp vào điểm c khoản 3 Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân. Đây là những thu nhập từ đầu tư vốn dưới hình thức khác. Hoạt động đầu tư vào tiền ảo – là một tài sản đặc biệt được pháp luật quy định trong Bộ luật Dân sự có thể mang lại lợi nhuận cho các chủ sở hữu.
Thứ hai, thuế suất áp dụng đối với các hoạt động liên quan đến tiền ảo và phương pháp tính thuế đối với các hoạt động liên quan đến tiền ảo: giá trị của tiền ảo có biến động rất nhanh, có thể tăng hoặc giảm trong một thời gian ngắn, như vậy học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, Việt nam cần bổ sung các quy định về kỳ tính thuế ngắn hạn, dài hạn với loại tài sản này tương tự như Hoa Kỳ. Với các lợi nhuận ngắn hạn thường sẽ bị chịu thuế cao hơn so với các lợi nhuận được sinh ra trong khoảng thời gian này. Các nhà làm luật cần kết hợp với các nhà nghiên cứu tài chính để tính toán và lựa chọn các mức thời gian áp dụng thuế sao cho thích hợp.
Cuối cùng, đối tượng chịu thuế đối với các hoạt động liên quan đến tiền ảo: Tất cả cá nhân, doanh nghiệp thực hiện các giao dịch mà pháp luật không cấm (theo quy định tại khoản 2 Điều 3 BLDS) đem lại lợi ích đo được bằng tiền của các chủ thể thực hiện giao dịch thì các cá nhân, tổ chức nhận được số lợi nhuận đó sẽ phải đóng thuế theo quy định của pháp luật.
[1] Ngân hàng Trung ương Châu Âu. 2015. "Virtual currency schemes – a futher analysis", 2/2015 tại link : https://www.ecb.europa.eu/pub/pdf/other/virtualcurrencyschemesen.pdf[2] Cục phòng chống tội phạm Hoa Kỳ- FINCEN. 2013. Application of FinCEN's Regulations to Persons Administering, Exchanging, or Using Virtual Currencies”, Mạng lưới phòng chống tội phạm tài chính 18 March 2013. p. 6.
[3] Tạp chí điện tử Pháp lý: Nhận diện những thách thức và một số đạo luật cần nghiên cứu sửa đổi khi xây dựng khung pháp lý đối với tài sản số tại Việt Nam, https://phaply.net.vn/nhan-dien-nhung-thach-thuc-va-mot-so-dao-luat-can-nghien-cuu-sua-doi-khi-xay-dung-khung-phap-ly-doi-voi-tai-san-so-tai-viet-nam-a257556.html
[4] Điều 2 Luật Thuế giá trị gia tăng
Tiến sĩ VŨ THÙY LINH
Trung tâm Pháp luật & Tác quyền, Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam

