1. Thành lập Tòa án quân sự
Cách mạng tháng 8 thành công đã đập tan chính quyền nhà nước thực dân phong kiến. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Chỉ 11 ngày sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 33C/SL thành lập các Tòa án quân sự (TAQS) trong phạm vi cả nước. Đây là loại hình Tòa án đầu tiên của Nhà nước Việt Nam và cũng là tiền thân của hệ thống Tòa án nhân dân hiện nay.
Các TAQS mà thực chất là Tòa án cách mạng ra đời trong điều kiện đất nước ta vừa giành độc lập, bị các lực lượng thù trong, giặc ngoài âm mưu phá hoại. Tòa án quân sự đã trở thành công cụ sắc bén đầy hiệu lực của chính quyền Nhà nước Việt Nam non trẻ, gánh vác trọng trách trừng trị và đè bẹp sự phản kháng của bọn thực dân, việt gian phản động, bảo vệ và củng cố thành quả cách mạng, tiến tới xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Trong thời kỳ này, TAQS tiến hành xét xử tất cả những người có hành vi gây phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 23/8/1946, Chính phủ ban hành các Sắc lệnh về tổ chức Tòa án binh lâm thời. Ngày 16/02/1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 19 thành lập các Tòa án binh khu. Theo đó, hệ thống TAQS gồm hai cấp: Tòa án binh tối cao và dưới là các Tòa án binh khu. Tuy nhiên, các Tòa án binh chưa phải là tổ chức hoạt động chuyên trách, mà chỉ khi có vụ án mới lập ra Tòa án để tổ chức xét xử.
Chiến tranh ngày càng lan rộng và ác liệt, chiến trường bị chia cắt nên Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư tổ chức các Tòa án binh mặt trận. Từ đây, Tòa án binh được thành lập ở tất cả các mặt trận để xét xử tội phạm ngay tại chiến trường. Các Tòa án binh đã bám sát chiến trường và cơ động cùng các đơn vị trong chiến đấu, kịp thời xét xử nghiêm minh những hành vi phạm tội xâm phạm đến độc lập của Tổ quốc và sức mạnh chiến đấu của quân đội, giữ gìn kỷ luật chiến trường.
Từ năm 1954 đến 1957, các Tòa án binh khu, Tòa án binh liên khu, Tòa án binh mặt trận được tổ chức theo vùng, miền và mặt trận cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu của quân đội. Như vậy, từ mô hình các TAQS hoạt động độc lập khi mới thành lập, đến năm 1947 đã được tổ chức theo hai cấp Tòa án và thực hành xét xử 1 cấp, án xử xong có hiệu lực thi hành ngay, không ai có quyền chống án, trừ trường hợp tuyên án tử hình phải chờ quyết định của Chủ tịch nước.
Ngày 03/01/1986, Pháp lệnh Tổ chức TAQS được ban hành. Pháp lệnh ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tổ chức và hoạt động của hệ thống TAQS. Theo đó, các TAQS được xác định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức trong Quân đội với hệ thống 3 cấp (Trung ương, Quân khu và Khu vực), hoạt động chuyên trách với vi trí, vai trò là cơ quan tư pháp trong quân đội. Và hệ thống Tòa án quân sự ba cấp đã được duy trì từ đó cho đến nay, ở Trung ương có TAQS Trung ương (thời gian đầu, từ 1986 đến 1992 là TAQS Cấp cao), cấp thứ hai gồm 9 TAQS cấp quân khu; cấp thứ ba gồm 17 TAQS khu vực.
Ngày 19/4/1993, Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 1993 được ban hành thay thế Pháp lệnh Tổ chức TAQS năm 1986; ngày 04/11/2002 Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 2002 được ban hành thay thế các pháp lệnh trước đó. Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 có một số điểm mới so với các pháp lệnh trước đó, đặc biệt là trong việc mở rộng thẩm quyền xét xử và hoàn thiện cơ cấu tổ chức. Cụ thể, pháp lệnh này mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự đối với một số loại tội phạm, không chỉ giới hạn ở tội phạm do quân nhân gây ra mà còn bao gồm cả các tội phạm khác theo quy định của pháp luật. Sau khi Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) có hiệu lực thi hành, thẩm quyền xét xử của TAQS được quy định tại Điều 272, hiện nay được hướng dẫn bởi Thông tư số 03/2023/TT-TANDTC ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân Tối cao.
Khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 ra đời các Tòa án vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức như pháp lệnh tổ chức các TAQS. Song, để thực hiện ý kiến chỉ đạo của trên, cũng như để hoàn thiện tổ chức bộ máy của các TAQS đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, ngày 10/9/2018 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 571/NQ-UBTVQH14 quyết nghị thành lập 9 TAQS quân khu và tương đương trên cơ sở các TAQS quân khu và tương đương hiện hành, và thành lập 10 TAQS khu vực trên cơ sở các TAQS khu vực hiện hành. Tổng biên chế của TAQS các cấp là 310 người, trong đó có 130 Thẩm phán. Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2024 (thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014) thì cơ cấu, tổ chức của các TAQS cơ bản giữ nguyên, chỉ có thay đổi về biên chế, tên gọi Thẩm phán, bậc Thẩm phán, trong đó số lượng Thẩm phán bậc 2 (Trung cấp) giảm toàn hệ thống là 02 Thẩm phán, tăng số lượng Thẩm phán bậc 3 (cao cấp) là 04 Thẩm phán.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cán bộ TAQS vừa là tay súng chiến đấu trực tiếp với quân thù, vừa làm nhiệm vụ xét xử tội phạm. Sau khi hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cả nước bước vào giai đoạn xây dựng CNXH. TAQS có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng và của các công dân khác. Bằng hoạt động của mình, các TAQS góp phần giáo dục quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, điều lệnh của Quân đội, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
2. Hoạt động xét xử sau khi Tòa án được thành lập năm 1945
Sau khi được thành lập, cán bộ TAQS đã vận dụng linh hoạt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong xét xử các vụ án hình sự. Một số vụ án điển hình mà các Tòa án quân sự đã xét xử tạo được lòng tin của nhân dân như:
Sau ngày 19/8/1945 cuộc Cách mạng ở nước ta đã thành công nhưng ở thủ phủ Hà Đông tỉnh Hà Đông (ngay là quận Hà Đông thuộc Thành phố Hà Nội), Chính quyền của nhà nước phong kiến đế quốc Pháp vẫn thực hiện việc cai trị dân, đàn áp dân, đông đảo nhân dân đã biểu tình đấu tranh đòi chính quyền của nhà nước phong kiến đế quốc Pháp phải trao trả lại chính quyền cho chính quyền Cách mạng nhưng tên Quảng Dưỡng theo lệnh của chính quyền phong kiến – Đế quốc đã ra lệnh cho lính thuộc quyền của Quảng Dưỡng dùng súng bắn và đoàn người biểu tình, hậu quả là gần 100 người biểu tình đã chết và bị thương.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Tòa án quân sự Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử công khai tên Quảng Dưỡng tại phiên tòa, Quảng Dưỡng đã nhận tội. Tòa án quân sự Hà Nội đã xử phạt Quảng Dưỡng tử hình về tội "Giết người".
Tòa án quân sự Huế, cuối năm 1945 Tòa án quân sự Huế xét xử tên Việt gian Dương Công Kỉnh với tội trạng là: Trước ngày 19/9/1945 thực dân Pháp mua chuộc Kỉnh để Kỉnh làm việc cho mật thám Pháp và đã tạo cớ để mật thám Pháp bắt Kỉnh về việc Kỉnh làm việc cho Cách mạng Việt Nam, rồi giam Kỉnh cùng buồng giam với cán bộ cách mạng trung kiên để Kỉnh chỉ điểm cho mật thám Pháp bắt, đàn áp cán bộ cách mạng trung kiên. Hậu quả về hành vi làm mật thám cho Pháp của Kỉnh là có hơn 200 cán bộ và nhân dân bị thực dân Pháp đàn áp, gây thiệt hại nghiêm trọng cho phong trào cách mạng ở Huế. Tòa án quân sự Huế đã xét xử công khai và xử phạt Dương Công Kỉnh tử hình về tội phản bội tổ quốc. Sau phiên tòa các cơ sở cách mạng được củng cố, nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với kẻ địch hơn.
Tòa án quân sự ở Nam Bộ, cuối tháng 9/1945, thực dân Pháp thực hiện âm mưu trở lại cai trị nước ta nên đã nổ súng đánh chiếm một số cơ quan trọng yếu của nhà nước non trẻ Việt Nam dân chủ cộng hòa có trụ sở tại dinh Toàn quyền, dinh Thống đốc Ngân hàng của Pháp ở Sài Gòn… nhân dân ta cùng lực lượng vũ trang nhân dân đánh trả quyết liệt, còn Lê Văn Khôi (tên gọi khác là Ba Nhỏ) có quá khứ mà nhân dân gọi là “tướng cướp” thuộc lực lượng Bình Xuyên được Cách mạng giáo dục, khoan hồng và giao cho Ba Nhỏ chỉ huy một đội quân đi đánh trả thực dân Pháp, nhưng Ba Nhỏ đã không thực hiện nhiệm vụ được giao mà cùng cấp dưới chiếm đoạt công quỹ của một số địa phương quấy nhiễu dân, hãm hiếp phụ nữ… Người nào chống lại lệnh của Ba Nhỏ đều bị bắn chết, những người dưới quyền Ba Nhỏ đều sợ hãi, còn nhân dân thì căm ghét.
Để nâng cao tinh thần chiến đấu chống thực dân Pháp và bảo vệ nhân dân chính quyền cách mạng Nam Bộ quyết định truy tố Ba Nhỏ trước Tòa án quân sự Nam Bộ. Chánh án Tòa án quân sự xét xử Ba Nhỏ là ông Nguyễn Bình, Tư lệnh giải phóng quân Nam Bộ được giao làm Chánh án. Ông Nguyễn Bình đã đến nơi đóng quân của lực lượng thuộc quyền chỉ huy của Ba Nhỏ nói rõ cho mọi người biết những sai phạm của Ba Nhỏ vô kỷ luật, quyết nhiễu nhân dân, cướp tài sản của nhân dân làm nhân dân bất bình và giải và phải đưa Ba Nhỏ ra Tòa án quân sự để xét xử.
Tòa án quân sự Nam Bộ đã mở phiên tòa xét xử Ba Nhỏ vào tháng 10 năm 1945, ông Nguyễn Bình, Chánh án phiên tòa đã đọc bản kết tội Ba Nhỏ. Tại phiên tòa Ba Nhỏ nhận tội, nhân chứng cung cấp bằng chứng hành vi phạm tội của Ba Nhỏ. Ông nguyễn Bình đã hỏi công khai các vị chỉ huy trong đơn vị giải phóng quân Nam Bộ về hình phạt đối với Ba Nhỏ, mọi người đồng thanh trả lời: “Tử hình”. Chánh án phiên tòa hỏi Ba Nhỏ về hình phạt đối với Ba Nhỏ thì Ba Nhỏ trả lời: "Xin nhận tội chết và hỏi ông Nguyễn Bình “khi tôi chết, thì chôn ở đâu?”. Ông Nguyễn Bình chỉ tay vào chỗ Ba Nhỏ đang đứng và nới “chôn ở ngay đây”. Ngay tức Ba Nhỏ nói xin mượn khẩu súng ngắn mà ông Bình đang đeo bên hông để tự xử. Ông Bình rút súng đưa cho Ba Nhỏ, Ba Nhỏ cầm súng tự bắn chết mình. Phiên tòa kết thúc được mọi người dự phiên tòa đồng tình ủng hộ cách mạng. Còn Ba Nhỏ được chôn cất tại chỗ.
Vào thời gian cuối năm 1945, Tòa án quân sự Nam Bộ đã xử Nguyễn Trinh Nguyệt, nữ nhân viên tình báo của Cao ủy Pháp ở Nam Bộ với tội trạng là cung cấp bí mật quân sự của Chính quyền Cách mạng cho Cao ủy Pháp ở Nam Bộ, thực hiện chỉ đạo của Cao ủy Pháp, nói xấu cán bộ Cách mạng, tung tin thất thiệt, vu không cán bộ cách mạng trung kiên làm cho nhiều cán bộ bị xử lý oan, gây thiệt hại nghiêm trọng cho cách mạng. Tại phiên tòa Nguyễn Trinh Nguyệt nhận tội và chấp hành hình phạt tử hình.
Bản án do TAQS tuyên đều có tính thuyết phục cao, củng cố và tăng cường niềm tin trong cán bộ, chiến sỹ và nhân dân đối với nền tư pháp nước nhà; góp phần quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, các TAQS còn tổ chức được nhiều phiên tòa rút kinh nghiệm và đăng được nhiều bản án trên cổng thông tin điện tử theo kế hoạch chung của Tòa án nhân dân tối cao cũng như của các TAQS. Các phiên tòa và các bản án được đánh giá có chất lượng tốt.
Bên cạnh hoạt động xét xử, các TAQS đã quán triệt và thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chỉ thị, kế hoạch của Bộ Quốc phòng về công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Các TAQS đã tổ chức nói chuyện và giảng dạy pháp luật hàng ngàn giờ cho cán bộ, chiến sĩ trên địa bàn đóng quân về nội dung pháp luật cũng như tình hình chấp hành pháp luật trong và ngoài quân đội, là cầu nối quan trọng giữa Nhà nước với nhân dân trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống.
Việc xét xử lưu động luôn được các Tòa chú trọng, thông qua các phiên tòa xét xử lưu động đã phát huy hiệu quả trực quan, sinh động, nâng cao nhận thức, kiến thức pháp luật; hạn chế, ngăn ngừa vi phạm kỷ luật, pháp luật tại các địa phương và đơn vị. Ngoài ra, các TAQS còn viết nhiều tin bài đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, các báo, đài ở trung ương và địa phương. Nhìn chung, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của các TAQS đã góp phần đáng kể vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của cả nước.
3. Đội ngũ cán bộ Tòa án quân sự
Trong thời kỳ đầu, đội ngũ cán bộ TAQS hầu hết là cán bộ chính trị, cán bộ quân sự chuyển sang làm công tác xét xử. Mặc dù chưa có kiến thức nhiều về pháp luật nhưng với quyết tâm vừa làm vừa học, vừa rút kinh nghiệm và trải qua thực tiễn xét xử, cán bộ TAQS đã ngày càng tiến bộ, từng bước trưởng thành. Năm 1975, toàn ngành TAQS mới chỉ có 2 cán bộ được học luật ở Nga về; năm 1979, có 12% cán bộ TAQS đạt trình độ trung cấp luật. Hiện nay, 100% số cán bộ chuyên môn của các TAQS có trình độ cử nhân luật (hầu hết được đào tạo theo chương trình chính quy dài hạn); có 94 cán bộ có trình độ sau đại học (trong đó có 03 Tiến sĩ) chuyên ngành luật.

Ảnh minh họa.
Ngoài hình thức đào tạo cơ bản, cán bộ TAQS thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thông qua các lớp ngắn hạn trong và ngoài nước như: Đào tạo nghiệp vụ thẩm phán tại Học viện Tư pháp hoặc dự các lớp nghiệp vụ do Trường cán bộ Tòa án (Học viện Tòa án), Tòa án nhân dân tối cao và TAQS Trung ương tổ chức; tập huấn nghiệp vụ tại nước ngoài như Hàn Quốc, Nga, Singapore,...
Cùng với công tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lãnh đạo ngành TAQS luôn quan tâm đến việc nâng cao trình độ chính trị, quân sự cho đội ngũ cán bộ. Cán bộ Tòa án quân sự hàng năm được cử đi dự các khoá đào tạo chính trị tại Học viện chính trị quân sự, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và một số các đồng chí lãnh đạo đi học tại Học viện Quốc phòng. Hiện nay, 100% Thẩm phán TAQS các cấp có trình độ cao cấp hoặc cử nhân chính trị (trong đó có 65 đồng chỉ có trình độ cao cấp lý luận chính trị). Bên cạnh đó, việc rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng kiến thức về ngoại ngữ, công nghệ thông tin thường xuyên được chú trọng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Đến nay, hầu hết cán bộ đã có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác; chưa phát hiện cán bộ nào có biểu hiện tham nhũng hay vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong giải quyết án.
Với đội ngũ cán bộ chất lượng ngày càng cao nên chất lượng hoạt động xét xử các vụ án ngày càng được nâng lên. Trong 80 năm qua, hoạt động xét xử luôn bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không xử oan người vô tội.
4. Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới
Tự hào với truyền thống 80 năm xây dựng và trưởng thành của Tòa án quân sự Việt Nam (13/9/1945-13/9/2023). Những năm tới, trước mắt là từ nay đến năm 2030, hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và ngành TAQS nói riêng tiếp tục lộ trình cải cách tư pháp cũng như tinh gọn bộ máy đã được Bộ chính trị, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương và Ban cải cách tư pháp Bộ Quốc phòng kết luận. Là bộ phận quan trọng trong hệ thống TAND, cán bộ và nhân viên TAQS thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư", đoàn kết, chủ động, tích cực, sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Với mục tiêu đó cán bộ, nhân viên ngành TAQS tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm là công tác xét xử, thi hành án hình sự. Quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Trọng tâm tổ chức thực hiện nghiêm biểu tổ chức biên chế theo hướng tinh, gọn, mạnh giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; thường xuyên bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn kiện, duy trì nghiêm nền nếp, chế độ công tác, bảo đảm chất lượng an toàn. Đẩy mạnh thi đua “Huấn luyện giỏi", huấn luyện cho các đối tượng bảo đảm nội dung, thời gian, quân số.
Thực hiện tốt các biện pháp nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, duy trì chấp hành pháp luật, kỷ luật, điều lệnh cho cán bộ, chiến sĩ gắn với phát huy vai trò của Hội đồng quân nhân, Hội phụ nữ, Chi đoàn thanh niên trong tham gia xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu"; đẩy mạnh cải cách hành chính, kế hoạch xây dựng chính phủ điện tử, chuyển đổi số trong toàn ngành TAQS.
Thiếu tá VŨ QUANG CƯƠNG
Phó Chánh án Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 1

