/ Trao đổi - Ý kiến
/ Tranh cãi quy định trong Dự thảo Thông tư về quản lý tiền công đức cho di tích và hoạt động lễ hội

Tranh cãi quy định trong Dự thảo Thông tư về quản lý tiền công đức cho di tích và hoạt động lễ hội

11/06/2021 08:31 |

(LSVN) - Mới đây, Dự thảo Thông tư hướng dẫn quản lý, thu chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội theo quy định (Dự thảo Thông tư) mới được Bộ Tài chính lấy ý kiến lần 2, đã nhận được rất nhiều bình luận và góp ý, thậm chí phản đối gay gắt tập trung vào nhóm quy định liên quan đến quản lý, thu chi tiền công đức tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội. Đây là vấn đề được xã hội rất quan tâm thời gian qua. Tuy nhiên, có thực sự đang thiếu quy định về quản lý tiền công đức, cần đưa quy định về can thiệp, quản lý trực tiếp của Nhà nước đối với tiền công đức trong Thông tư này không?

Ảnh minh họa. 

Không thiếu quy định pháp luật về quản lý tiền công đức

Tiền công đức (tên gọi truyền thống là tiền giọt dầu, đặt lễ, cúng dường...) đến nay chưa có định nghĩa cụ thể tại bất kỳ văn bản pháp luật nào, nhưng trong thực tiễn và truyền thống văn hoá tại Việt Nam, thuật ngữ này được sử dụng riêng hoặc tạo sự liên tưởng ngay đến Phật giáo. Tiền công đức là tài sản mà tổ chức tôn giáo được phép tiếp nhận và được công nhận quyền sở hữu theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 (“Luật TNTG”) phù hợp với quy tắc chung của Bộ luật Dân sự về bảo hộ quyền sở hữu tài sản riêng của pháp nhân phi thương mại [1].

Do vậy, quan điểm cho rằng thiếu quy định về quản lý Nhà nước đối với tiền công đức là không đúng mà về nguyên tắc, Nhà nước không được trực tiếp quyết định thay việc sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng hợp pháp của cá nhân, tổ chức mà phải tôn trọng riêng quy định của từng tổ chức tôn giáo về vấn đề này.

Ví dụ: Giáo hội Phật giáo Việt Nam có quy định riêng về xác lập, sử dụng, quản lý và định đoạt tài sản của Giáo hội theo Hiến chương của Giáo hội, Quy chế hoạt động của Ban Trị sự Giáo hội, Nội quy Ban Tăng sự Trung ương, Nội quy Ban Kinh tế, tài chính của Giáo hội… Giáo hội Công giáo Việt Nam có quy định riêng và chi tiết về thủ đắc, quản trị và chuyển nhượng tài sản vật chất của Giáo hội tại Bộ Giáo luật năm 1983 do Toà thánh Vatican ban hành và được Hội đồng Giám mục Việt Nam áp dụng như các giáo hội Công giáo trên thế giới.

Nếu Chính phủ và các bộ, ngành muốn quản lý chung tiền tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội có liên quan đến hoặc gắn với các cơ sở tôn giáo thì Dự thảo này phải quy định theo hướng mở rộng đối tượng áp dụng chung cho các tài sản của tổ chức khác, thay vì đang sử dụng riêng thuật ngữ “tiền công đức” (là thuật ngữ dùng riêng cho Phật giáo). Cách tiếp cận hiện này đang vô tình tạo ra sự đối xử bất bình đẳng trong quản lý Nhà nước giữa các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam. Đây chính là lí do vì sao thời gian qua, đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam và cộng đồng Phật tử tại Việt Nam lại rất quan tâm và có ý kiến rất quyết liệt về Dự thảo Thông tư này như vậy.

Đánh đồng “tiền công đức” và “tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội”

Một trong các nguyên nhân dẫn đến quan điểm nhầm lẫn này của Bộ Tài chính là do các di tích văn hoá - lịch sử tại Việt Nam thường gắn với các chùa, tự viện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do đặc thù của lịch sử, truyền thông văn hoá. Nhưng xét cả ở góc độ pháp lý và thực tiễn thì “tiền công đức” và tiền “tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội” có bản chất pháp lý khác nhau và chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống văn bản pháp luật khác nhau, cần phải được phân biệt rõ như sau:

- Tiền công đức là một tài sản của tổ chức tôn giáo, thuộc quyền sở hữu riêng của tổ chức tôn giáo nên được tổ chức tôn giáo tự mình quyết định việc quản lý, sử dụng, định đoạt theo khoản 5 Điều 21 và Điều 56 Luật TNTG [2]. Quyền đối với tài sản thuộc sở hữu riêng của tổ chức tôn giáo được Nhà nước bảo hộ theo các quy định tại khoản 3 Điều 3, khoản 6 Điều 7 Luật TNTG [3] và nguyên tắc về bảo hộ quyền tài sản tại Bộ luật Dân sự hiện hành [4].

- Tiền tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội là các khoản quyên góp, tài trợ, đóng góp tự nguyện của cá nhân, tổ chức cho mục đích bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, lịch sử, thuộc sự quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động văn hoá, di tích theo quy định của Luật Di sản văn hoá năm 2001 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn.

Xuất phát từ việc xác định không đúng về đối tượng điều chỉnh, các quy định liên quan đến nguyên tắc góp, tiếp nhận tiền công đức và quản lý thu, chi tiền công đức cũng chưa phù hợp. Cụ thể tại khoản 4 Điều 2 quy định nguyên tắc “Tiền công đức… không thuộc sở hữu cá nhân và không phản ánh vào ngân sách nhà nước; được để lại toàn bộ cho cơ quan, đơn vị tổ chức lễ hội, quản lý di tích sử dụng cho các hoạt động lễ hội, quản lý và sử dụng di tích” không phù hợp bởi:

Thứ nhất, không có cở sở khẳng định tiền công đức không thuộc sở hữu cá nhân vì theo văn hoá và truyền thống về thực hành tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam thì chủ yếu người cho tặng vật, tiền trong trường hợp này có ý chí hướng đến các nhà tu hành nên tài sản thuộc sở hữu riêng hợp pháp của cá nhân nhận cho tặng cho.

Thứ hai, việc tặng, cho thường gắn với niềm tin tâm linh và người tặng, cho cũng không quan tâm hoặc không cần được cam kết về mục đích sử dụng số tiền, tài sản tặng, cho đó. Do vậy, Nhà nước không có cơ sở quyết định thay mục đích sử dụng tài sản của chủ sở hữu. Điều này trái với ý chí của người tặng cho và trái với niềm tin tâm linh, tôn giáo của họ, vi phạm quyền tự do tings ngưỡng và quyền đối với tài sản của cá nhân, pháp nhân theo quy định hiện hành.

Trong trường hợp này, các cơ quan quản lý Nhà nước còn có thể đối mặt với phải sự phản đối gay gắt của các tín đồ, đệ tử của các tổ chức tôn giáo như thời gian qua.

Vậy không cần thiết và không nên ban hành các quy định việc Nhà nước sử dụng, quyết định thay “tiền công đức” mà Nhà nước chỉ tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát theo đúng thẩm quyền trong các trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Đặc biệt đối với các cơ sở tôn giáo đã tự chủ hoàn toàn, thậm chí tự chủ được cả nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động văn hoá tâm linh, lễ hội truyền thống và các hoạt động thiện nguyện khác mà không cần sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì việc kiểm soát trực tiếp việc thu, chi và hoạt động lại càng không cần thiết và gây phản cảm trong dư luận. Việc kiểm soát, giám sát chi phí đầu tư, xây dựng, duy tu, bảo trì di tích đã có các quy định chi tiết của Luật Di sản, Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Khi phát hiện các dấu hiệu, hành vi vi phạm về quản lý chi phí đầu tư, xây dựng theo quy định, hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác về giao dịch tài chính, Nhà nước vẫn có thể can thiệp qua chức năng kiểm tra, giám sát của mình.

================================================

[1] Khoản 1 Điều 30 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016: Tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại.

[2] Điều 21 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 Điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo: Tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo được công nhận là tổ chức tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: .. 5. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình.

Điều 56 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 Việc quản lý, sử dụng tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo: 1. Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo bao gồm tài sản được hình thành từ đóng góp của thành viên tổ chức; quyên góp, tặng cho của tổ chức, cá nhân hoặc các nguồn khác theo quy định của pháp luật; 2. Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Điều 3 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: … 3. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.

Điều 7 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 Quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc: … 6. Nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho.

[4] Khoản 1 Điều 205 Bộ luật Dân sự năm 2015: Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.

Khoản 1 Điều 206 Bộ luật Dân sự năm 2015: Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác không trái pháp luật.

Thạc sĩ, Chuyên gia pháp lý NGUYỄN THANH HÀ

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế

Lê Minh Hoàng