CHIỀU
Hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng năm 2022
(LSVN) - Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vừa ban hành Thông tư 37/2021/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH và trợ cấp hằng tháng, thời điểm hưởng lương hưu đối với trường hợp không còn hồ sơ gốc.
Theo đó, từ ngày 01/01/2022, mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng của các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 1 Thông tư này được tăng thêm 7,4% so với mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng của tháng 12 năm 2021. Cụ thể:
Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng từ tháng 01 năm 2022 = Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp tháng 12 năm 2021 x 1,074
Theo khoản 1 Điều 1 Thông tư 37/2021/TT-BLĐTBXH, các đối tượng quy định tại điểm a, điểm b và điểm c khoản 1 Điều 1 Nghị định số 108/2021/NĐ-CP hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng trước ngày 01/01/2022. Cụ thể:
- Cán bộ, công chức, công nhân, viên chức và người lao động; quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang hưởng lương hưu hằng tháng.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng lương hưu hằng tháng;
- Người đang hưởng trợ cấp mất sức lao động hằng tháng theo quy định của pháp luật; người đang hưởng trợ cấp hằng tháng trước 01/01/2022.
Từ ngày 01/01/2022, mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng của các đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư này được điều chỉnh cụ thể như sau:
- Đối với người có mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng từ 2.300.000 đồng/người/tháng trở xuống:
Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng sau điều chỉnh = Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng trước điều chỉnh + 200.000 đồng/tháng
- Đối với người có mức lương hưu, trợ bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng từ trên 2.300.000 đồng/người/tháng đến dưới 2.500.000 đồng/người/tháng:
Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng sau điều chỉnh = 2.500.000 đồng/tháng
Ngoài ra, Thông tư này còn quy định thời gian hưởng lương hưu với trường hợp không còn hồ sơ gốc làm việc trong khu vực nhà nước trước ngày 01/01/1995 là thời điểm ghi trong văn bản giải quyết của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Thông tư 37/2021/TT-BLĐTBXH có hiệu lực từ ngày 15/3/2022 và thay thế Thông tư 10/2019/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2019.
PHƯƠNG HOA
Mở cửa lại trường học đảm bảo nguyên tắc 'thích ứng an toàn, hiệu quả'
1. Hỗ trợ đến 30 triệu đồng cho lao động phải về nước trước hạn từ 21/02
(LSVN) - Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ban hành Quyết định số 40/2021/QĐ-TTg về Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 21/02/2022. Theo đó, hỗ trợ đến 30 triệu đồng cho lao động phải về nước trước hạn.
Quyết định này quy định về việc thành lập, tổ chức hoạt động, quản lý và sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước (sau đây được viết tắt là Quỹ); mức đóng góp vào Quỹ của doanh nghiệp và người lao động; nội dung chi và mức chi đối với các nhiệm vụ của Quỹ quy định tại Điều 67 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Tại Điều 10 Quyết định quy định rõ về hỗ trợ người lao động phải về nước trước thời hạn do bị tai nạn lao động, tai nạn rủi ro, ốm đau, bệnh tật đến mức không còn khả năng tiếp tục làm việc ở nước ngoài. Theo đó, mức hỗ trợ từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng/trường hợp. Trước đây chỉ hỗ trợ tối đa 05 triệu đồng theo Quyết định 144/2007/QĐ-TTg.
Người lao động hoặc người được người lao động ủy quyền hoặc người đại diện theo pháp luật của người lao động gửi giấy đề nghị hỗ trợ (Mẫu theo Phụ lục I ban hành kèm theo Quyết định này) kèm theo 01 bộ hồ sơ chứng minh theo một trong các hình thức: trực tuyến, trực tiếp, qua bưu chính hoặc thông qua doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa đi đến Cơ quan điều hành Quỹ.
Hồ sơ gồm:
- Bản sao văn bản thanh lý hợp đồng ký giữa doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa đi và người lao động, nêu rõ lý do về nước trước thời hạn; hoặc văn bản thông báo của người sử dụng lao động về việc chấm dứt hợp đồng đối với người lao động vì các lý do nêu trên;
- Bản sao giấy khám sức khỏe của người lao động hoặc giấy tờ khác chứng minh tình trạng bệnh tật, thương tật do cơ quan y tế nước sở tại cấp;
- Bản sao hộ chiếu của người lao động;
- Văn bản ủy quyền (ghi rõ nội dung ủy quyền) hoặc giấy tờ chứng minh quyền đại diện theo pháp luật theo quy định trong trường hợp người được ủy quyền hoặc người đại diện theo pháp luật nộp hồ sơ.
Trường hợp hồ sơ nộp thông qua doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa đi, đơn vị, cá nhân lập danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ kèm theo hồ sơ của người lao động gửi Cơ quan điều hành Quỹ (Mẫu theo Phụ lục II ban hành kèm theo Quyết định này).
Trong thời gian 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, Cơ quan điều hành Quỹ kiểm tra, đối chiếu hồ sơ và thực hiện hỗ trợ theo đề nghị của người lao động. Trường hợp không hỗ trợ phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Bên cạnh đó, Quyết định này cũng bổ sung một số khoản hỗ trợ khác như người lao động phải về nước trước hạn vì người sử dụng lao động ở nước ngoài bị giải thể, phá sản hoặc thu hẹp sản xuất do thiên tai, dịch bệnh, bất ổn chính trị, chiến tranh, suy thoái kinh tế hoặc vì lý do bất khả kháng khác được hỗ trợ từ 7-20 triệu đồng/trường hợp.
Người lao động phải về nước trước thời hạn do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi bị người sử dụng lao động ngược đãi, cưỡng bức lao động hoặc có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe hoặc bị quấy rối tình dục trong thời gian làm việc ở nước ngoài được hỗ trợ ở mức từ 7-20 triệu đồng/trường hợp.
Ngoài ra, người lao động phải về nước trước hạn (do bị tai nạn lao động, ốm đau, đơn phương chấm dứt hợp đồng khi bị người sử dụng lao động ngược đãi…) có nhu cầu được đào tạo chuyển đổi nghề, được hỗ trợ chi phí đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng nghề để tham gia thị trường lao động, ổn định cuộc sống được hỗ trợ 1 triệu đồng/tháng, tối đa 6 tháng/người/khóa học.
TIẾN HƯNG
Tăng mức phạt đối với hành vi xây dựng nhà ở không có giấy phép
2. Đạo đức cán bộ xuống cấp hay còn nhiều sơ hở trong công tác quản lý tài sản công?
(LSVN) - Đối với các cán bộ, lãnh đạo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Thừa Thiên Huế thì Cơ quan điều tra sẽ làm rõ hành vi là vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng hay hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, nhận hối lộ để xử lý đối với các tội danh tương ứng... Những tội phạm về chức vụ có mức chế tài rất nghiêm khắc, nếu là hành vi nhận hối lộ thì với số tiền nhận hối lộ từ 1.000.000.000 đồng trở lên, người phạm tội có thể phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất có chế tài là tử hình.
Cảnh sát điều tra Công an Thừa Thiên Huế đọc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với hai đối tượng.
Khởi tố, bắt tạm giam Giám đốc và Kế toán trưởng CDC tỉnh Thừa Thiên Huế
Vừa qua, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam 4 tháng đối với hai đối tượng thuộc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Thừa Thiên Huế là Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Thừa Thiên Huế Hoàng Văn Đức (trú phường Vỹ Dạ, thành phố Huế) và Kế toán trưởng kiêm Trưởng phòng Tài chính kế toán Hà Thúc Nhật (trú thị xã Hương Trà).
Ông Đức và ông Nhật bị bắt vào ngày 18/02 về hành vi “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 222, Bộ luật Hình sự 2017.
Được biết, CDC Thừa Thiên Huế là một trong những cơ quan được Bộ Công an nêu tên có liên quan trong vụ việc Công ty Việt Á. Tuy nhiên, khi trả lời báo chí, ông Đức khẳng định "không có tiêu cực trong việc mua bán kit test Covid-19".
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã tiến hành khám xét nơi ở và nơi làm việc của ông Đức và ông Nhật tại trụ sở Trung tâm CDC tỉnh Thừa Thiên Huế, qua đó thu giữ các tài liệu, vật chứng, tiền mặt liên quan. Trước đó, qua công tác nghiệp vụ, Công an tỉnh Thừa Thiên Huế phát hiện nhiều sai phạm liên quan đến việc mua sắm trang thiết vị, vật tư hóa chất, quần áo bảo hộ phòng, chống dịch diễn ra trên địa bàn tỉnh.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đang tiếp tục tiến hành điều tra, mở rộng vụ án.
Đạo đức xuống cấp hay còn nhiều sơ hở trong công tác quản lý tài sản công?
Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam về vụ việc này, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết, việc khởi tố thêm một Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật liên quan đến vụ Việt Á không có gì bất ngờ bởi những thông tin trước đó từ vụ án này cho thấy có rất nhiều cá nhân, tổ chức có liên quan có sai phạm, được ăn chia đối với các bị can trong vụ án này.
Đối với vụ án này số lượng vật tư tiêu hao được doanh nghiệp bán cho rất nhiều địa phương có chất lượng không đảm bảo, đúng vào thời điểm dịch bệnh đang diễn biến phức tạp nên hậu quả của những sai phạm này rất nghiêm trọng, gây ra thiệt hại rất lớn cho xã hội. Vụ án không chỉ cho thấy vấn đề đạo đức của một bộ phận cán bộ, lãnh đạo trong ngành y đang xuống cấp nghiêm trọng mà còn cho thấy công tác quản lý kinh tế, quản lý tài sản công trong lĩnh vực này đang có rất nhiều sơ hở.
“Việc một loạt Giám đốc về các thuộc cấp của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật nhiều tỉnh thành bị khởi tố liên quan đến sai phạm trong vụ Việt Á và trong mua sắm thiết bị, vật tư y tế ở nhiều bệnh viện cho thấy đạo đức của một bộ phận cán bộ trong ngành này đã suy thoái nghiêm trọng hoặc đã có những lỗ hổng trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này”, Luật sư Cường bày tỏ ý kiến.
Việc công ty Việt Á được thổi phồng thành tích rồi bán kít test xét nghiệm không đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn cho một loạt tỉnh, thành phố, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả của công tác phòng chống dịch bệnh, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người bệnh, làm phát sinh nhiều chi phí chống dịch của nhà nước.
"Phải nói rằng những sai phạm đó đã tác động tiêu cực đến công tác phòng chống dịch bệnh, có thể gián tiếp tước đoạt tính mạng của nhiều bệnh nhân. Đây là tội ác chứ không chỉ là vi phạm pháp luật thông thường. Điều đáng nói là các bị can khai nhận đã chi số tiền trên 800.000.000.000 đồng để "bôi trơn" cho các cán bộ, lãnh đạo ở nhiều địa phương. Bản chất hành vi "bôi trơn" là hành vi đưa hối lộ, cấu kết với nhau để làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm quy định về đấu thầu, vi phạm về quản lý kinh tế, vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản nhà nước... Bởi vậy việc mở rộng điều tra, xác minh làm rõ sai phạm của các tổ chức, cá nhân có liên quan để xử lý theo quy định của pháp luật là cần thiết", Luật sư Cường nói.
Theo vị Luật sư này, một điều cũng đáng lưu ý trong vụ án này là khi Cơ quan điều tra Bộ Công an khởi tố nhiều người tại công ty Việt Á thì rất nhiều cán bộ lãnh đạo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật ở các địa phương đều "thề" rằng mình không liên quan, nếu ăn 1 đồng thôi là xứng đáng đi tù. Tuy nhiên, những phát ngôn, "thề thốt" của một số cán bộ CDC ở địa phương đã bị Cơ quan điều tra khởi tố cho thấy đạo đức của nhiều cán bộ trong ngành Y tế hiện nay đã suy thoái nghiêm trọng. Hành vi vi phạm như vậy là lỗi cố ý, những cán bộ này biết rõ hành vi như vậy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi để hưởng lợi từ nỗi sợ hãi, hoang mang của cộng đồng trước dịch bệnh. Họ biết rõ là hành vi vi phạm quy định về đấu thầu (cấu kết với công ty Việt Á, mua các vật tư y tế không đảm bảo chất lượng, thổi giá để lấy tiền nhà nước chia nhau) nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi, chỉ vì lợi ích trước mắt, vì số tiền bất chính có thể ăn chia nên đã bất chấp pháp luật.
Hành vi lại diễn ra đối với lãnh đạo cán bộ ngành y tế, một ngành đòi hỏi đạo đức cao trong hoạt động nghề nghiệp, được xã hội tôn vinh, nể trọng. Bởi vậy vụ án này là tiếng chuông cảnh tỉnh cho nhiều người khác, đồng thời cho thấy lỗ hổng trong công tác quản lý tài sản nhà nước, trong mua sắm thiết bị vật tư y tế.
Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp.
Đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến công tác phòng chống dịch bệnh và làm thất thoát tài sản của nhà nước. Vì vậy các đối tượng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh như: tội "Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng", tội "Đưa hối lộ", "Nhận hối lộ"; tội "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ"; tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng",... Tùy thuộc vào từng hành vi và hậu quả của những người có liên quan.
Ngoài ra những sản phẩm kém chất lượng này sẽ tác động tiêu cực đến công tác phòng chống dịch bệnh, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bệnh nên thiệt hại đối với xã hội là không thể đo đếm được. Trong quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra cũng sẽ làm rõ những thiệt hại mà các bị can đã gây ra đối với nhà nước, với các tổ chức, cá nhân để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật.
Đối với các cán bộ, lãnh đạo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Thừa Thiên Huế thì Cơ quan điều tra sẽ làm rõ hành vi là vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng hay hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, nhận hối lộ để xử lý đối với các tội danh tương ứng... Những tội phạm về chức vụ có mức chế tài rất nghiêm khắc, nếu là hành vi nhận hối lộ thì với số tiền nhận hối lộ từ 1.000.000.000 đồng trở lên, người phạm tội có thể phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất có chế tài là tử hình.
Vụ án xảy ra tại các Trung tâm Kiểm soát bệnh tật, các bệnh viện, cơ sở y tế ở nhiều địa phương trong thời gian qua cho thấy đạo đức của một bộ phận cán bộ trong ngành y tế đang xuống cấp nghiêm trọng, công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội đối với lĩnh vực này cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết, sơ hở khiến các đối tưởng trục lợi. Vụ án này không chỉ để xử lý đối với các cán bộ có vi phạm mà còn tìm ra các lỗ hổng, kẻ hở trong công tác quản lý đối với lĩnh vực y tế để kịp thời sửa chữa, khắc phục.
Cần phải kịp thời sửa đổi bổ sung các quy định của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công, các quy chế, quy định về mua sắm tài sản công. Đồng thời cần phải làm tốt hơn đối với vấn đề công tác cán bộ nói chung và cán bộ trong ngành Y tế nói riêng để sử dụng đúng người, đúng việc. Những người không còn đủ năng lực, phẩm chất, đạo đức thì cần phải được phát hiện kịp thời để loại bỏ khỏi bộ máy nhà nước.
Đồng thời, cần phải bồi dưỡng đạo đức, trình độ, nâng cao năng lực quản lý và nâng cao bản lĩnh chính trị để các cán bộ, lãnh đạo ngành Y tế nói riêng, các cán bộ trong lĩnh vực khác nói chung không bị đánh gục bởi lợi ích vật chất, không vì quyền lợi riêng tư mà xâm phạm đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
DUY ANH
Khởi tố, bắt tạm giam Giám đốc và Kế toán trưởng CDC tỉnh Thừa Thiên Huế
3. Các trường hợp người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia
(LSVN) - Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư 02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 về việc hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản. Trong đó, quy định rõ về các trường hợp người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn của tổ chức đấu giá tài sản.
Cụ thể, căn cứ nguyên tắc đấu giá tài sản quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Đấu giá tài sản; nguyên tắc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư này, người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn của tổ chức đấu giá tài sản trong các trường hợp sau đây:
- Người sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản, người có quyền đưa tài sản ra bán đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người đứng đầu Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản, người đại diện theo pháp luật, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên hợp danh của doanh nghiệp đấu giá tài sản.
- Người sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản, người có quyền đưa tài sản ra bán đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức có khả năng chi phối hoạt động của tổ chức đấu giá tài sản đó thông qua sở hữu, thâu tóm phần vốn góp hoặc thông qua việc ra quyết định của tổ chức đấu giá tài sản đó.
- Trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Thông tư này hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản. Thông tư áp dụng đối với người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc đấu giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản.
Thông tư không áp dụng đối với trường hợp lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu theo quy định của pháp luật. Trường hợp lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu thì thực hiện theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản và pháp luật về đấu thầu.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 25/3/2022.
DUY ANH
Quy định về hủy kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản
SÁNG
1. Mức phạt tiền vi phạm quy định về trật tự xây dựng theo quy định mới nhất
(LSVN) - Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng, trong đó quy định mức phạt tiền đối với vi phạm quy định về trật tự xây dựng.
Ảnh minh họa.
Cụ thể, tại Điều 31 Nghị định nêu rõ xử phạt đối với hành vi thi công xây dựng không che chắn hoặc có che chắn nhưng để rơi vãi vật liệu xây dựng xuống các khu vực xung quanh hoặc để vật liệu xây dựng không đúng nơi quy định như sau:
- Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ hoặc công trình xây dựng khác;
- Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với xây dựng công trình có yêu cầu phải lập báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc công trình phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng.
Xử phạt đối với hành vi tổ chức thi công xây dựng công trình vi phạm quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng gây lún, nứt hoặc hư hỏng công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình lân cận hoặc gây sụp đổ hoặc có nguy cơ gây sụp đổ công trình lân cận nhưng không gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người khác như sau:
- Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ;
- Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc công trình xây dựng khác;
- Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với xây dựng công trình có yêu cầu phải lập báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc công trình phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng.
Xử phạt nhà thầu tiếp tục thực hiện thi công xây dựng công trình mà chủ đầu tư công trình đó đã bị lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi quy định tại khoản 4, khoản 6, khoản 7, khoản 8, khoản 9 và khoản 10 Điều 16 Nghị định này như sau:
- Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ;
- Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc công trình xây dựng khác;
- Phạt tiền từ 160.000.000 đồng đến 180.000.000 đồng đối với xây dựng công trình có yêu cầu phải lập báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc công trình phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng.
Hình thức xử phạt bổ sung:
- Tước quyền sử dụng chứng chỉ năng lực hoặc chứng chỉ hành nghề từ 03 tháng đến 06 tháng với hành vi quy định tại khoản 3 Điều này;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính với hành vi quy định tại khoản 3 Điều này.
Biện pháp khắc phục hậu quả: buộc che chắn theo quy định và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường (nếu có) với hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 28/01/2022.
HỒNG HẠNH
Sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động và quản lý hội
2. Đóng BHXH tối thiểu bao nhiêu năm thì được hưởng lương hưu?
(LSVN) - Theo quy định hiện hành, người lao động cần phải đóng BHXH tối thiểu bao nhiêu năm thì được hưởng lương hưu? Bạn đọc T.A. hỏi.
Ảnh minh họa.
Điều 74 trong Luật Bảo hiểm Xã hội 2014, quy định về mức lương hưu hằng tháng (theo cách tính áp dụng từ ngày 01/01/2018 trở đi). Cụ thể, mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu được tính bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH và tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:
- Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm.
- Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.
Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định trên được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75% tiền lương tháng đóng BHXH.
Mức lương hưu hằng tháng theo Điều 74 của Luật Bảo hiểm xã hội trên được quy định cụ thể tại Nghị định 134/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Theo đó, mức lương hưu hằng tháng được tính bằng tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng nhân với mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng được tính như sau:
- Người nghỉ hưu từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2018, tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%;
- Nữ nghỉ hưu từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 trở đi, tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%;
- Nam nghỉ hưu từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 trở đi, tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội theo bảng dưới đây, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội, được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%:
Như vậy, từ năm 2022 trở đi, lao động nam đủ điều kiện về hưu đóng tối thiểu 20 năm BHXH là có thể hưởng lưu hưu, còn lao động nữ đủ điều kiện về hưu chỉ cần đóng tối thiểu 15 năm BHXH là có thể nhận mức lương hưu 45%.
HÀ ANH
Quy định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù: Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện
3. Bàn về các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015
(LSVN) - Miễn trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với hành vi do người phạm tội thực hiện. Đồng thời qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng và giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Do đó, giải quyết tốt vấn đề trách nhiệm hình sự và áp dụng đúng đắn các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự sẽ tạo cơ sở pháp lý tốt cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ảnh minh họa.
Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 được ghi nhận tại các Điều 19, 25, 69, 80, 289, 290, 314, theo đó quy định về miễn trách nhiệm hình sự bao gồm hai loại quy định có tính chất bắt buộc và quy định có tính chất tùy nghi. Với những quy định có tính chất bắt buộc khi gặp những trường hợp phù hợp với nội dung điều luật quy định, cơ quan có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, với những quy định có tính tùy nghi thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể đánh giá tính chất, mức độ của sự việc để quyết định miễn hay không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) mở rộng phạm vi miễn trách nhiệm hình sự, quy định như sau:
"1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”.
Những vướng mắc, bất cập khi áp dụng Điều 29 BLHS
BLHS năm 2015 đã quy định đầy đủ các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, tuy nhiên quá trình áp dụng vào thực tiễn vẫn còn những quan điểm, cách hiểu khác nhau. Trong bài viết này tác giả nghiên cứu nội dung và điều kiện áp dụng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015.
Điều 29 BLHS năm 2015 quy định hai trường hợp người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc và một số trường hợp người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự có tính chất tùy nghi, sau đây tác giả xem xét lần lượt từng nội dung cụ thể:
Thứ nhất, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc được áp dụng cho tất cả các loại tội phạm được quy định tại Điều 9 BLHS khi có đủ căn cứ pháp lý. Căn cứ để xác định do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa là những quy định của Nhà nước bằng văn bản có liên quan đến hành vi phạm tội, các quy định này phải có tính pháp quy.
Tuy nhiên, nội dung này cũng có một số quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng sự thay đổi chính sách được hiểu là sự thay đổi về chính sách hình sự. Quan điểm thứ hai lại cho rằng sự thay đổi chính sách là sự thay đổi về chính sách kinh tế, chính sách xã hội làm cho hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội. Tác giả cho rằng sự thay đổi chính sách, pháp luật để được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp này là sự thay đổi về chính sách hình sự.
Ví dụ: Do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, Thủ tướng Chính phủ ban hành các Chỉ thị để thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid-19, lập các chốt kiểm dịch, bắt buộc tất cả người dân phải chấp hành các biện pháp để phòng chống dịch bệnh như đeo khẩu trang, đo thân nhiệt, giữ khoảng cách tối thiểu khi tiếp xúc, cách ly tập trung, cách ly tại nhà, giản cách xã hội. Những hành vi chống đối như không chấp hành việc đo thân nhiệt, đeo khẩu trang khi đi qua các chốt kiểm dịch, không chấp hành cách ly tập trung trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 bùng phát sẽ bị xem là tội phạm và đều có thể bị xử lý, nhẹ thì bị xử phạt hành chính, nặng bị xử lý hình sự. Tuy nhiên khi dịch bệnh hết, cuộc sống xã hội trở lại bình thường những hành vi như không đeo khẩu trang, không chấp hành việc đo thân nhiệt, không chấp hành cách ly tập trung lại không bị xem là tội phạm, không bị xử phạt hành chính, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, có sự thay đổi chính sách, pháp luật để được miễn trách nhiệm hình sự ở đây phải được hiểu là sự thay đổi chính sách, pháp luật hình sự, không phải là sự thay đổi chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
Thứ hai, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá.
Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc. Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền quyết định đại xá (khoản 11 Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Cơ sở để Quốc hội ban hành quyết định đại xá nhân dịp có những sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng của đất nước, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội. Văn bản đại xá do Quốc hội ban hành có hiệu lực đối với tất cả những hành vi phạm tội đã xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá thì được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu đã khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ; nếu đã chấp hành xong hình phạt thì được coi là không có tiền án.
Thứ ba, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính tùy nghi, không có tính bắt buộc, vì vậy có những quan điểm khác nhau khi áp dụng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khi phạm tội họ là người nguy hiểm cho xã hội nhưng sau đó họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội thì được coi là do có sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa để miễn trách nhiệm hình sự cho họ. Như vậy, theo quan điểm này thì chuyển biến tình hình ở đây chính là sự biến đổi cá nhân của người phạm tội chứ không phải chuyển biến của tình hình xã hội.
Quan điểm thứ hai cho rằng cách hiểu như trên là không đúng, vì sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa không phải xem xét chuyển biến về ý thức của người phạm tội, mà phải hiểu rằng bản thân người phạm tội không có sự biến đổi nào, khi phạm tội họ là người như thế nào thì bây giờ họ vẫn như vậy. Do tình hình xã hội thay đổi nên họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, nguyên nhân họ không còn nguy hiểm cho xã hội chính là do tình hình xã hội thay đổi chứ không phải do nỗ lực của bản thân họ.
Tác giả cho rằng hiểu theo quan điểm thứ hai là phù hợp, chính do không nắm chắc yếu tố này nên trong thực tiễn có trường hợp lầm tưởng sự thay đổi của tình hình xã hội với sự nỗ lực của bản thân người phạm tội và cho rằng do có sự thay đổi của người phạm tội nên hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và đã miễn trách nhiệm hình sự, hiểu và áp dụng như thế là sai.
Thứ tư, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự do người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Đây là điểm mới thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam. Người mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc các bệnh dễ dẫn đến tử vong, bệnh hiểm nghèo phải nằm trong danh mục do Bộ Y tế quy định và do Hội đồng giám định y khoa xác định. Nếu người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo nhưng vẫn còn nguy hiểm cho xã hội thì không được miễn trách nhiệm hình sự. Việc đánh giá một người không còn nguy hiểm cho xã hội nữa phải căn cứ vào nhiều yếu tố, phải khách quan toàn diện và hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất tùy nghi, vì vậy có những quan điểm khác nhau khi áp dụng.
Có quan điểm cho rằng người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dù ở giai đoạn nào cũng được miễn trách nhiệm hình sự vì đã mắc bệnh hiểm nghèo thì hành vi phạm tội của họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Quan điểm khác lại cho rằng người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo nhưng phải ở giai đoạn cuối của bệnh hiểm nghèo đó mới được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Nguyễn Văn A phạm tội ‘‘Trộm cắp tài sản’’ theo khoản 1 Điều 173 BLHS, A bị mắc bệnh AIDS giai đoạn cuối hoặc Trần Văn B phạm tội ‘‘Cướp tài sản’’ theo khoản 1 Điều 168 BLHS và B bị bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối. Trong trường này Nguyễn Văn A và Trần Văn B do mắc bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối nên hành vi phạm tội của A và B không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, vì vậy A và B được miễn trách nhiệm hình sự.
Tác giả cho rằng cách hiểu thứ hai phù hợp hơn, bởi vì dù mắc bệnh hiểm nghèo, nhưng ở giai đoạn đầu của bệnh, sức khỏe của người phạm tội vẫn còn tốt, hành vi phạm tội vẫn chưa hết nguy hiểm cho xã hội, họ vẫn còn có thể có hành vi khác gây nguy hiểm cho xã hội. Khi người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo ở giai đoạn cuối, sức khỏe của họ đã suy kiệt đến mức không thể có hành vi nào khác gây nguy hiểm cho xã hội nữa mới được xem xét miễn trách nhiệm hình sự, qua đó thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo vừa thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ năm, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự vì trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Trong trường hợp này người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau: Người phạm tội tự thú đã đến cơ quan có thẩm quyền khai báo hành vi phạm tội của mình khi chưa bị phát hiện; khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm tức là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình cũng như hành vi của đồng phạm, không giấu bất kỳ một tình tiết nào; người phạm tội cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm như trả lại tài sản đã chiếm đoạt, thông báo kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc tài sản; lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận, đây là trường hợp người phạm tội đã có hành động giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình trạng hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể, cá nhân trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc khác được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa nhận.
Trường hợp này gặp một số vướng mắc như: Việc lập công như thế nào được xác định là lập công lớn. Cống hiến như thế nào là cống hiến đặc biệt. Những nội dung này chưa có văn bản nào hướng dẫn. Được xã hội thừa nhận là một việc rất khó khăn, ai chứng minh cho điều này. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự không có tính bắt buộc, chỉ mang tính tùy nghi, vì vậy có những quan điểm khác nhau khi áp dụng.
Có quan điểm cho rằng chỉ cần người phạm tội “Có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận” là đã đủ điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự. Quan điểm khác lại cho rằng để được miễn trách nhiệm hình sự người phạm tội ngoài điều kiện “Có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận” phải cần có thêm điều kiện “Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm” thì mới được miễn trách nhiệm hình sự. Tác giả cho rằng quy định miễn trách nhiệm hình sự này có 3 trường hợp khác nhau để có thể xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, trường hợp thứ nhất ‘‘trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm’’; trường hợp thứ hai người phạm tội lập công lớn; trường hợp thứ ba người phạm tội có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Nếu rơi vào một trong ba trường hợp này người phạm tội sẽ được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ sáu, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Trường hợp này người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau: Thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 03 năm hoặc tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù, do lỗi vô ý; gây ra hậu quả làm thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác; tự nguyện hòa giải và người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Việc áp dụng quy định này trong thực tiễn vẫn còn vướng mắc, cách hiểu khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng cứ có đủ các điều kiện nêu trên thì người thực hiện tội phạm được miễn trách nhiệm hình sự. Quan điểm thứ hai lại cho rằng không phải cứ có đủ các điều kiện nêu trên thì người thực hiện tội phạm được miễn trách nhiệm hình sự, mà tùy từng trường hợp, từng vụ án cụ thể người tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào nhân thân, tiền án, tiền sự, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, loại tội cụ thể…để xem xét miễn hay không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi vì không phải cứ có đủ các điều kiện nêu trên thì người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Lê Anh T. có hành vi dùng dao chém Nguyễn Hải S. bị thương tỷ lệ thương tật 3%, vụ án được xử lý hình sự theo yêu cầu của người bị hại S. Tại phiên tòa, người bị hại S đề nghị Hội đồng xét xử miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo T., tuy nhiên do yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử không chấp nhận, không xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo T., mặc dù T. đủ điều kiện và được người bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Đề xuất, kiến nghị
Chế định miễn trách nhiệm hình sự khi áp dụng vào thực tiễn còn bộc lộ những vướng mắc như: Hiểu thế nào là sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; thế nào là chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo ở giai đoạn nào được xem là không còn nguy hiểm cho xã hội. Việc lập công như thế nào được xác định là lập công lớn. Cống hiến như thế nào là cống hiến đặc biệt được Nhà nước và xã hội công nhận. Hiện nay còn có những cách hiểu và áp dụng khác nhau.
Tòa án nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách chính xác, thống nhất giúp cho những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…) nhận thức đầy đủ về căn cứ, điều kiện áp dụng cho từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở đó ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chính xác, không bỏ lọt tội phạm, tránh làm oan sai, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
THẠC SĨ LÊ ĐÌNH NGHĨA
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5
Quy định của pháp luật về truy cứu TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
4. Sửa đổi điều kiện xem xét, thẩm tra, chấp thuận khoản vay nước ngoài
(LSVN) - Đây là nội dung đáng chú ý được quy định tại Thông tư số 09/2022/TT-BTC ngày 14/02/2022 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế xem xét, thẩm tra, chấp thuận các khoản vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả của doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ ban hành kèm theo Thông tư số 153/2014/TT-BTC ngày 20/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Cụ thể, Quy chế này quy định nội dung Bộ Tài chính thẩm định, chấp thuận chủ trương các khoản vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả dưới hình thức hợp đồng vay gắn với dự án đầu tư của các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Đối tượng áp dụng là cơ quan đại diện chủ sở hữu; doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ không bao gồm các doanh nghiệp là tổ chức tín dụng; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Theo đó, sửa đổi, bổ sung khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5, khoản 8 Điều 4 Thông tư số 153/2014/TT-BTC về điều kiện xem xét, thẩm tra, chấp thuận khoản vay nước ngoài. Cụ thể:
- Dự án sử dụng khoản vay nước ngoài phải phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp, do doanh nghiệp làm chủ đầu tư và nằm trong kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm, kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp. Hiện hành, dự án đầu tư nằm trong kế hoạch đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Cơ quan đại diện chủ sở hữu đã phê duyệt chủ trương khoản vay nước ngoài. Hiện hành, tại Thông tư số 153/2014/TT-BTC chủ sở hữu đã phê duyệt chủ trương vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả.
- Bên cho vay đã có ý kiến bằng văn bản đồng ý cung cấp khoản vay nước ngoài. Hiện hành, quy định bên cho vay đã chấp thuận cho vay bằng văn bản.
- Tổng số nợ phải trả của doanh nghiệp (bao gồm cả giá trị các khoản bảo lãnh cho các công ty con vay vốn tại tổ chức tín dụng) không vượt quá ba lần vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp được ghi trên báo cáo tài chính quý hoặc báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất với thời điểm nộp hồ sơ để Bộ Tài chính thẩm định theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 23 Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp ngày 26 tháng 11 năm 2014. Trường hợp huy động vốn trên mức quy định này thì phải được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt.
- Có phương án tài chính đảm bảo khả năng trả nợ khoản vay nước ngoài. Hiện nay, tại Thông tư số 153/2014/TT-BTC quy định có phương án tài chính đảm bảo khả năng trả nợ khoản vay nước ngoài đã được Chủ sở hữu thẩm định, phê duyệt.
Thông tư 09/2022/TT-BTC có hiệu lực ngày 01/4/2022.
TIẾN HƯNG
Bộ Công an đề nghị cung cấp thông tin các chuyến bay 'giải cứu' công dân
5. Hong Kong (Trung Quốc) công bố quy định về 'thẻ thông hành vaccine'
(LSVN) - Chiều 21/02, chính quyền Khu hành chính đặc biệt Hong Kong (Trung Quốc) thông báo quy định áp dụng “thẻ thông hành vaccine” trong bối cảnh số ca mắc mới tại đặc khu liên tục ghi nhận mức cao mới.
Theo phóng viên tại Hong Kong, từ ngày 24/02, khi đến các địa điểm như trường học, văn phòng chính quyền, bệnh viện, nhà hàng, chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và cửa hàng bách hóa..., người dân phải quét ứng dụng “Leave home Safe” (Đi lại an toàn), đồng thời phải xuất trình “thẻ thông hình vaccine” bản điện tử hoặc bản giấy. Những người không đủ điều kiện tiêm vaccine sẽ phải xuất trình giấy chứng nhận miễn trừ y tế.
Người dân quét mã kiểm tra y tế trước khi vào tòa nhà tại Hong Kong, Trung Quốc. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN.
“Thẻ thông hành vaccine” sẽ được thực hiện theo 3 giai đoạn. Trong giai đoạn 1, tất cả những người từ 12 tuổi trở lên phải tiêm ít nhất một mũi vaccine ngừa Covid-19. Giai đoạn 2 bắt đầu từ cuối tháng 4 tới, tất cả những người trên 18 tuổi phải tiêm ít nhất 2 mũi vaccine, những người từ 12-17 tuổi chỉ cần tiêm ít nhất 1 mũi vaccine.
Giai đoạn 3 bắt đầu vào cuối tháng 6, tất cả những người từ 18 tuổi trở lên đã tiêm mũi vaccine thứ hai trên 9 tháng sẽ phải tiêm mũi vaccine thứ ba. Những người từ 12-17 tuổi đã tiêm mũi thứ nhất hơn 6 tháng sẽ phải tiêm mũi vaccine thứ hai mới có thể vào những địa điểm đã được quy định.
Trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, người đến các chợ, trung tâm thương mại, cửa hàng bách hóa và siêu thị không cần chủ động xuất trình “thẻ thông hành vaccine”, nhưng các nhân viên thực thi pháp luật sẽ kiểm tra ngẫu nhiên. Tuy nhiên, những người làm việc ở các địa điểm này bắt buộc phải có “thẻ thông hành vaccine”.
Ngoài ra, 17 chi nhánh của ngân hàng Bank of China (Hong Kong) sẽ tạm ngừng hoạt động kể từ ngày 21/2 do có nhiều nhân viên mắc Covid-19. Ngân hàng này sẽ áp dụng các biện pháp phòng dịch bao gồm vệ sinh và khử trùng các chi nhánh liên quan, bố trí nhân viên làm việc tại các chi
Hiện các bệnh viện công của Hong Kong đã không còn giường trống. Trong 24 giờ qua, Hong Kong ghi nhận 7.533 ca mắc mới Covid-19, mức cao nhất theo ngày, và 13 ca tử vong.
Tính đến ngày 20/02 vừa qua, 85,9% dân số tại Hong Kong đã tiêm ít nhất 1 mũi vaccine ngừa Covid-19 và 75,8% dân số đã tiêm đủ liều cơ bản. Kể từ khi làn sóng dịch bệnh thứ 5 bùng phát đến nay, Hong Kong đã ghi nhận trên 40.000 ca mắc mới và trên 60 trường hợp tử vong do Covid-19.
TTXVN
Tăng mức phạt đối với hành vi xây dựng nhà ở không có giấy phép
6. Giảm thời gian cách ly đối với F1 đã tiêm đủ liều vaccine xuống còn 5 ngày
(LSVN) - Bộ Y tế quy định với F1 đã tiêm đủ ít nhất 2 liều vaccine phòng Covid-19, liều cuối cùng tiêm ít nhất đã qua 14 ngày hoặc đã khỏi bệnh Covid-19 trong vòng 3 tháng tính đến thời điểm được xác định là đối tượng F1 thì thực hiện cách ly y tế 5 ngày tại nhà, nơi lưu trú hoặc các khu vực đủ điều kiện cách ly khác kể từ ngày phơi nhiễm cuối cùng.
Bộ Y tế vừa ban hành công văn số 762/BYT-DP gửi Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thủ trưởng các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ Y tế về việc cách ly y tế đối cách ly y tế đối với ca bệnh Covid-19 và các trường hợp tiếp xúc gần (F1).
F1 tiêm 2 mũi vaccine Covid-19 chỉ cách ly 5 ngày, xét nghiệm 1 lần.
Công văn này thay thế Công văn số 10696/BYT-MT ngày 16/12/2021 của Bộ Y tế về việc cách ly y tế cho trường hợp F1 đã tiêm đủ liều vaccine hoặc đã khỏi bệnh Covid-19. Tại công văn 10696, Bộ Y tế quy định, F1 tiêm đủ mũi vaccine phải cách ly tế 7 ngày tại nhà, nơi lưu trú, tự theo dõi sức khỏe trong 7 ngày tiếp theo. Ngoài ra, thực hiện xét nghiệm 2 lần (lần 1 khi bắt đầu thực hiện cách ly, lần 2 vào ngày thứ 7).
Việc ban hành công văn mới này được Bộ Y tế căn cứ vào tình hình dịch bệnh hiện nay trên thế giới và tại Việt Nam, tỷ lệ bao phủ vaccine cao trên phạm vi toàn quốc, nhằm hài hòa giữa việc phát triển kinh tế và kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 tại các cơ quan, xí nghiệp, trường học, địa phương.
Theo công văn mới này, Bộ Y tế yêu cầu Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành; Thủ trưởng các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ Y tế tổ chức việc cách ly y tế với F0 và F1 phù hợp với điều kiện và nguồn lực của các địa phương.
Tại Công văn mới số 762/BYT-DP Bộ Y tế quy định rõ với F1 đã tiêm đủ ít nhất 2 liều vaccine phòng Covid-19, liều cuối cùng tiêm ít nhất đã qua 14 ngày hoặc đã khỏi bệnh Covid-19 trong vòng 3 tháng tính đến thời điểm được xác định là đối tượng F1 thì thực hiện cách ly y tế 5 ngày tại nhà, nơi lưu trú hoặc các khu vực đủ điều kiện cách ly khác kể từ ngày phơi nhiễm cuối cùng.
F1 này cần thực hiện xét nghiệm vào ngày cách ly thứ 5 do nhân viên y tế thực hiện hoặc người cách ly tự thực hiện dưới sự giám sát của nhân viên y tế bằng ít nhất một trong các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp qua các phương tiện từ xa.
Nếu kết quả âm tính thì tiếp tục tự theo dõi sức khỏe trong 5 ngày tiếp theo và nghiêm túc thực hiện Thông điệp 5K.
F1 chưa tiêm đủ liều hoặc chưa tiêm vaccine phòng Covid-19 thì thực hiện cách ly 7 ngày tại nhà, nơi lưu trú hoặc các khu vực đủ điều kiện cách ly khác kể từ ngày phơi nhiễm cuối cùng; thực hiện xét nghiệm vào ngày cách ly thứ 7. Nếu kết quả âm tính thì tiếp tục tự theo dõi sức khỏe trong 3 ngày tiếp theo và nghiêm túc thực hiện Thông điệp 5K.
Trong quá trình cách ly, nếu F1 có dấu hiệu bất thường về sức khỏe (sốt; ho; đau họng; chảy nước mũi, nghẹt mũi; đau người, mệt mỏi, ớn lạnh; giảm hoặc mất vị giác; giảm hoặc mất khứu giác; đau, nhức đầu; tiêu chảy; khó thở; viêm đường hô hấp) thì báo cho cơ quan y tế để theo dõi, xét nghiệm và xử trí theo quy định.
MAI HUỆ
Hỗ trợ cho lao động phải về nước trước hạn từ 21/02
7.