Quy định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù: Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện

12/02/2022 16:10 | 2 năm trước

(LSVN) - Giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là một quy định mang tính chất nhân đạo của pháp luật Việt Nam, thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước đối với phạm nhân, được thể hiện thông qua việc Tòa án quyết định cho người đang chấp hành hình phạt được chấp hành hình phạt với mức ít hơn mức hình phạt của bản án đã tuyên, khi có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Quy định này có ý nghĩa lớn, được thực hiện hằng năm nhân các ngày lễ lớn của đất nước, là công cụ pháp lý giúp Nhà nước đánh giá hiệu quả công tác tổ chức thi hành án phạt tù, công tác quản lý, giáo dục phạm nhân, tạo động lực cho phạm nhân phấn đấu, cải tạo để có cơ hội được nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, sớm trở về với gia đình, xã hội.

Ảnh minh họa. 

Thấy được tầm quan trọng của quy định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù (THCHHPT) trong pháp luật hình sự Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, làm cơ sở pháp lý để hướng dẫn thi hành. Từ đó, quy định giảm THCHHPT đã được tổ chức thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh, góp phần tích cực và công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, thì hiện nay đã bộc lộ những bất cập, nhiều quy định chưa đồng bộ, làm cho hoạt động giảm THCHHPT gặp nhiều khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác THAHS.

Những bất cập trong quy định pháp luật giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù

Quy định căn cứ giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù

Thứ nhất, căn cứ để áp dụng đối với những phạm nhân được đề nghị xét giảm lần hai.

Theo quy định chung của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, thì phạm nhân được cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền đề nghị xét giảm THCHHPT khi hội đủ 3 điều kiện: “Đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”. Ở đây, BLHS không quy định rõ là ba điều kiện đó được áp dụng chung cho tất cả các lần đề nghị xét giảm đối với phạm nhân hay chỉ áp dụng đối với phạm nhân được đề nghị xét giảm lần đầu. Vì vậy, trong thực tiễn giữa các cơ quan có thẩm quyền trong công tác xét giảm còn nhận thức khác nhau và không thống nhất trong quá trình áp dụng.

Quan điểm thứ nhất, quy định trên được hiểu là đối với những phạm nhân được đề nghị xét giảm lần đầu thì phải thỏa mãn cả 3 điều kiện trên mới được đề nghị xét giảm. Đối với những phạm nhân được đề nghị xét giảm lần hai, do BLHS quy định không rõ và hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể quy định trên, để đảm bảo yếu tố có lợi cho phạm nhân, vẫn áp dụng tinh thần quy định tại khoản 5 Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2013: “Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù phải liên tục được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên mới được tiếp tục xem xét đề nghị giảm thời hạn đúng đợt…”, mà không cần phải có điều kiện “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”.

Quan điểm thứ hai, quy định trên được hiểu là tất cả các lần đề nghị xét giảm THCHHPT phạm nhân đều phải đáp ứng đầy đủ ba điều kiện trên mới đề nghị xét giảm; mặc dù quy định trên chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng quy định cụ thể, nhưng BLHS năm 2015 đã có hiệu lực thi hành và giá trị hiệu lực của BLHS cao hơn Thông tư liên tịch hướng dẫn. Do đó, áp dụng Điều 63 BLHS năm 2015 để xét giảm cho phạm nhân.

 Từ những cách hiểu không thống nhất trên, dẫn đến một thực tế là trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự, Tòa án, Viện Kiểm sát lại có căn cứ khác nhau khi xét giảm và khi đề nghị xét giảm THCHHPT cho phạm nhân, Tòa án và Viện Kiểm sát lại không chấp nhận đề nghị xét giảm, vì lý do: trong kỳ xét giảm lần này, phạm nhân không thực hiện thêm phần nào về nghĩa vụ dân sự theo quyết định của bản án.

Thứ hai, căn cứ để xem xét phạm nhân “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”.

Theo tinh thần hướng dẫn tại mục 1 Phần I Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03 tháng 4 năm 2019 của TANDTC, thì “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 63 của BLHS được hiểu là đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án”. Do không được hướng dẫn cụ thể nên khi áp dụng có nhiều quan điểm trái ngược nhau:

Quan điểm thứ nhất, yếu tố “Đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự” ở đây, được xem xét áp dụng đối với tất cả các lần được đề nghị xét giảm đối với phạm nhân. Có nghĩa là, lần đầu xét giảm phạm nhân đã thực hiện được một phần hai nghĩa vụ dân sự theo quyết định của bản án và lần xét giảm tiếp theo phạm nhân phải tiếp tục thực hiện thêm một phần hai nghĩa vụ dân sự trên tổng số một phần hai nghĩa vụ dân sự còn lại phải thực hiện của lần đầu xét giảm. Có như thế, phạm nhân mới đủ điều kiện xem xét giảm đúng đợt, đảm bảo sự công bằng, dân chủ giữa các phạm nhân và đảm bảo mục đích khắc phục triệt để hậu quả thiệt hại do hành vi phạm tội của phạm nhân gây ra.

Quan điểm thứ hai cho rằng, “đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự” chỉ xem xét đối với những phạm nhân được đề nghị xét giảm lần đầu, còn đối với những phạm nhân được đề nghị xét giảm lần hai, không cần xem xét đã thực hiện một phần hai nghĩa vụ dân sự trên tổng số một phần hai nghĩa vụ dân sự còn lại phải thực hiện của lần đầu xét giảm trước đó, mà chỉ cần xem xét phạm nhân có tiếp tục thể hiện tinh thần khắc phục phần nào hậu quả thiệt hại của vụ án hay không.

Từ hai quan điểm trên, tác giả nhất trí với quan điểm thứ hai, bởi lẽ: Mặc dù quan điểm thứ nhất nếu áp dụng thì đảm bảo quyền lợi triệt để cho cá nhân, tập thể và Nhà nước bị thiệt hại do tội phạm gây ra. Nhưng ngược lại số phạm nhân được xét giảm THCHHPT lại rất hạn chế, vì đối với những phạm nhân phải thực hiện nghĩa vụ dân sự với khoản tiền lớn nhưng có hoàn cảnh gia đình kinh tế đặc biệt khó khăn thì việc thực hiện một phần hai nghĩa vụ dân sự trên tổng số nghĩa vụ dân sự phải thực hiện đã khó, nay phải tiếp tục thực hiện thêm một phần hai nghĩa vụ dân sự trên tổng số còn lại của lần đầu xét giảm thì rất khó có thể thực hiện được.

Vì vậy, áp dụng theo quan điểm thứ hai là phù hợp, nhưng cơ quan đề nghị xét giảm phải xem xét cụ thể đối với từng trường hợp, đối với những phạm nhân mà nghĩa vụ dân sự còn lại phải thực hiện nhiều thì lần xét giảm tiếp theo đòi hỏi phải thực hiện nghĩa vụ dân sự hợp lý, có xem xét hoàn cảnh cụ thể của từng phạm nhân, bắt buộc phải nhiều hơn đối với những phạm nhân có số nghĩa vụ dân sự còn lại ít hơn. Như thế, mới khắc phục được tình trạng có phạm nhân mặc dù gia đình có đủ điều kiện kinh tế để khắc phục hậu quả nhưng không khắc phục triệt để mà chỉ thực hiện một phần để được xét giảm.

Quy định đối tượng giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù

Khoản 4, khoản 5 Điều 63 BLHS năm 2015 quy định:

“4. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.

5. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung…”.

Đối với quy định trên, thực tiễn thi hành nhận thức như thế nào đối với những phạm nhân có hành vi phạm tội xảy ra trước nhưng được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử trong quá trình chấp hành hình phạt của bản án đối với hành vi phạm tội xảy ra sau. Theo quy định trên thì phạm nhân này có thuộc đối đối tượng đề nghị xét giảm hay không?

Ví dụ: Ngày 10/10/2016, phạm nhân Đ. chấp hành án phạt tù 6 năm về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2016/HS-ST ngày 04/9/2016 của Tòa án quân sự Quân khu K. Trong quá trình chấp hành án tại trại giam, phạm nhân đã được Tòa án quyết định xét giảm THCHAP 1 lần (đợt 30/4/2018), trong quá trình chấp hành án tiếp theo, phạm nhân đều được xếp loại chất lượng cải tạo khá. Nhưng đến đợt 30/4/2019, trại giam, cơ quan thi hành án hình sự không đề nghị xét giảm án đối với phạm nhân Đ. với lý do: Hiện nay phạm nhân đang bị Tòa án quân sự Quân khu K. xét xử theo trình tự sơ thẩm về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác xảy ra trước khi chấp hành hình phạt của Bản án số 08/2016/HS-ST ngày 04/9/2016 của Tòa án quân sự Quân khu K.

Do không được đề nghị, phạm nhân Đ. đã có đơn khiếu nại gửi đến Viện Kiểm sát, Tòa án với lý do chiếu theo các quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 63 BLHS năm 2015, thì Đ. bị Tòa án xét xử về hành vi phạm tội khác xảy ra trước đó, chứ không phải bị xét xử về hành vi phạm tội mới, do đó việc trại giam, cơ quan thi hành án hình sự không đề nghị xét giảm cho Đ. là vi phạm pháp luật và không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của Đ.

Theo quan điểm người viết, đây là một vấn đề chưa được BLHS quy định cụ thể thuộc trường hợp hạn chế quyền được đề nghị xét giảm THCHHPT và cơ quan thi hành án hình sự chưa đưa ra căn cứ cụ thể theo quy định của pháp luật hiện hành để loại phạm nhân ra khỏi danh sách đề nghị xét giảm. Nhưng về mặt thực tiễn, người viết thấy rằng quyết định của cơ quan thi hành án hình sự là phù hợp, bởi lẽ việc phạm nhân đã thực hiện hành vi phạm tội trước đó nhưng khi điều tra, truy tố, xét xử về hành vi phạm tội sau và trong suốt thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân đã không ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội trước đó của mình, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh, gọn, dứt điểm vụ án, mà còn cố tình giấu diếm hành vi phạm tội của mình.

Điều đó thể hiện bản chất của phạm nhân là người không tốt, chưa thực sự là người hoàn lương, hướng thiện. Vì vậy, mặc dù không phải thuộc trường hợp phạm nhân phạm tội mới trong quá trình chấp hành án nhưng thấy rằng phạm nhân không xứng đáng được hưởng chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự là hoàn toàn hợp lý. Chính những quy định của BLHS chưa cụ thể hóa hết những vấn đề trong thực tiễn, nên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại những bất cập, khó khăn nhất định, cần có sự điều chỉnh kịp thời, nhằm tháo gỡ khó khăn và giúp các cơ quan có thẩm quyền đề nghị xét giảm và xét giảm đưa ra những quyết định có căn cứ thuyết phục, hợp lý, hợp tình và có sự thống nhất chung.

Quy định căn cứ giải quyết trường hợp phạm nhân đã có quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của Tòa án, nhưng quyết định chưa có hiệu lực pháp luật mà vi phạm nội quy trại giam, trại tạm giam hoặc có hành vi vi phạm pháp luật

Điều 14 Thông tư liên tịch số 02/2013 quy định: “Trường hợp phạm nhân đã được đề nghị xét giảm THCHHPT mà vi phạm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật trước khi có quyết định giảm của Tòa án thì giám thị trại tạm giam, trại giam, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải báo cáo kịp thời với thủ trưởng cơ quan thẩm định quy định tại Điều 13 của Thông tư liên tịch này, Tòa án có thẩm quyền xét giảm và Viện Kiểm sát cùng cấp với Tòa án để loại phạm nhân ra khỏi danh sách xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù”.

Nhưng đối với trường hợp: “Phạm nhân đã có quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của Tòa án nhưng quyết định chưa có hiệu lực mà phạm nhân vi phạm nội quy trại giam, trại tạm giam hoặc có hành vi vi phạm pháp luật” thì BLHS năm 2015 và Luật Thi hành án hình sự năm 2019 có hiệu lực thi hành, không có điều luật nào quy định, hướng dẫn cụ thể việc giải quyết trường hợp nêu trên. Đây là một điểm thiếu sót mà pháp luật hiện nay chưa đề cập đến.

Đối với trường hợp nêu trên có hai quan điểm giải quyết như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, “phạm nhân đã có quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của Tòa án nhưng quyết định chưa có hiệu lực pháp luật mà vi phạm nội quy trại giam, trại tạm giam hoặc có hành vi vi phạm pháp luật”, thì áp dụng quy định tại Điều 16 Thông tư liên tịch số 02/2013 để giải quyết theo trình tự phúc thẩm quyết định của Tòa án về giảm THCHHPT.

Quan điểm thứ hai lại cho rằng, nếu “phạm nhân đã có quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của Tòa án nhưng quyết định chưa có hiệu lực pháp luật mà vi phạm nội quy trại giam, trại tạm giamhoặc có hành vi vi phạm pháp luật” thì cơ quan đã đề nghị giảm THCHHPT đối với phạm nhân cần lập hồ sơ chuyển đến Tòa án đã ra quyết định giảm để xem xét, hủy quyết định giảm THCHHPT, áp dụng tương tự như tin thần quy định đối với chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Theo quan điểm thứ nhất, áp dụng thì không phù hợp, vì việc Viện Kiểm sát kháng nghị quyết định giảm THCHAPT của Tòa án, phải xem xét trên cơ sở tại thời điểm xét giảm Tòa án có vi phạm quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện xét giảm đối với phạm nhân hay không? Còn trong trường hợp này, tại thời điểm xét giảm, phạm nhân có đủ điều kiện xét giảm thì Tòa án tiến hành các trình tự, thủ tục xét giảm đúng quy định của pháp luật, nhưng vì lý do khách quan sau khi có quyết định xét giảm phạm nhân mới vi phạm nội quy trại giam, trại tạm giam hoặc có hành vi vi phạm pháp luật. Đối với quan điểm thứ hai thì không có căn cứ áp dụng, vì pháp luật hình sự và thi hành án hình sự không có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục. Vì vậy, pháp luật cần có quy định rõ ràng để các cơ quan có thẩm quyền thuận lợi hơn trong quá trình xem xét.

Kiến nghị hoàn thiện

Đối với quy định BLHS năm 2015

Thứ nhất, cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể các điều kiện xét giảm THCHHPT “đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 63 BLHS, để thay thế Thông tư liên tịch số 02/2013, hướng dẫn thi hành các quy định về giảm THCHHPT đối với phạm nhân, bởi vì Thông tư liên tịch số 02/2013 hướng dẫn quy định xét giảm THCHHPT theo quy định của BLHS năm 1999, đến nay đã có những nội dung không còn phù hợp với thực tiễn và tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh có liên quan.

Đồng thời, để đảm bảo phù hợp với thực tiễn, không gây bất lợi, ảnh hưởng quyền lợi cho phạm nhân, yếu tố “đã bồi thường được một phần hai nghĩa vụ dân sự” được làm căn cứ đánh giá việc xét giảm cho mỗi phạm nhân theo hướng như sau:

“Đã bồi thường được một phần hai nghĩa vụ dân sự”chỉ nên xem xét trong lần đề nghị xét giảm lần đầu đối với những phạm nhân phạm tội thuộc các nhóm tội xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về tham nhũng, chức vụ; đối với đề nghị xét giảm lần hai không cần xem xét phạm nhân đã thực hiện một phần hai nghĩa vụ dân sự trên tổng số một phần hai nghĩa vụ dân sự còn lại phải thực hiện của lần đầu xét giảm, mà chỉ cần xem xét phạm nhân đó có tiếp tục thể hiện tinh thần chủ động, tích cực khắc phục phần nào hậu quả thiệt hại của vụ án hay không, nhưng phải xem xét cụ thể đối với từng trường hợp: đối với những phạm nhân mà nghĩa vụ dân sự còn lại phải thực hiện nhiều thì đòi hỏi phải thực hiện nghĩa vụ dân sự có phần đáng kể, bắt buộc phải nhiều hơn đối với những phạm nhân có số nghĩa vụ dân sự còn lại ít hơn, đồng thời xem đó là yếu tố để quyết định mức giảm phù hợp.

Đối với những phạm nhân phạm tội thuộc các nhóm tội phạm khác thì các lần đề nghị xét giảm không bắt buộc phải “bồi thường được một phần hai nghĩa vụ dân sự”, nhưng buộc phạm nhân phải thể hiện tinh thần tích cực bồi thường, khắc phục hậu quả và các nghĩa vụ dân sự khác trong bản án, quyết định của Tòa án. Về mức độ thực hiện nghĩa vụ dân sự cần phải đánh giá dựa trên các yếu tố liên quan, như đặc điểm nhân thân, hoàn cảnh gia đình, khả năng thực hiện. Còn đối với những phạm nhân mà trong các kỳ xét giảm tiếp theo vì hoàn cảnh gia đình, khả năng kinh tế hoặc vì lý do nào đó mà không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ dân sự thì bắt buộc họ phải có số kỳ xếp loại chất lượng cải tạo khá, tốt nhiều hơn đối với những phạm nhân tích cực thực hiện nghĩa vụ dân sự. Đồng thời, mức xét giảm cũng phải quyết định trên cơ sở tính chất, mức độ phạm tội, cũng như mức độ thực hiện nghĩa vụ dân sự trong từng kỳ xét giảm đối với từng phạm nhân. Quy định theo hướng đó mới đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các phạm nhân.

Thứ hai, Điều 63 BLHS năm 2015 cần quy định bổ sung thêm nội dung: “Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà có hành vi phạm tội khác xảy ra trước nhưng được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử trong quá trình chấp hành hình phạt của bản án đối với hành vi phạm tội xảy ra sau, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung”, có như vậy mới đảm bảo được ý nghĩa, mục đích của chế định giảm THCHHPT. Bởi lẽ, phạm nhân không phải tiếp tục phạm tội mới trong quá trình chấp hành án, nhưng trước đó đã có hành vi phạm tội xảy ra mà bản thân phạm nhân đã không chủ động khai báo, không ăn năn hối cải, giấu giếm, che lấp hành vi phạm tội của mình thì đối tượng này pháp luật cũng cần có những chế tài phù hợp, buộc họ phải có những điều kiện xét giảm khắt khe hơn, để tăng tính giáo dục, răn đe.

Đối với quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2013

Nhằm khắc phục những thiếu sót, lổ hổng trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động giảm THCHHPT và giúp cho các cơ quan có liên quan trong xét giảm thuận tiện hơn trong việc giải quyết hậu quả pháp lý đối với trường hợp “phạm nhân đã có quyết định xét giảm của Tòa án nhưng quyết định chưa có hiệu lực mà vi phạm nội quy trại giam, trại tạm giam hoặc có hành vi vi phạm pháp luật” thì Thông tư liên tịch số 02/2013 cần sửa đổi, quy định bổ sung trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết trường hợp nêu trên theo hướng: “Phạm nhân đã có quyết định xét giảm của Tòa án nhưng quyết định chưa có hiệu lực pháp luật mà vi phạm nội quy trại giam, trại tạm giam và bị xử lý kỷ luật hoặc có hành vi vi phạm pháp luậtthì cơ quan đã đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù lập hồ sơ, chuyển đến Tòa án đã ra quyết định xét giảm để xem xét, hủy quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, đồng thời gửi 01 bộ hồ sơ đến Viện Kiểm sát cùng cấp với Tòa án.

Hồ sơ bao gồm: Văn bản đề nghị hủy quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; Quyết định kỷ luật phạm nhân kèm theo biên bản vi phạm nội quy sơ sở giam giữ phạm nhân hoặc văn bản về việc vi phạm pháp luật và các tài liệu khác có liên quan. Trình tự, thủ tục Tòa án xem xét, quyết định hủy quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù được thực hiện theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 38 Luật Thi hành án hình sự năm 2019”.

QUÁCH HỮU NGHỊ

Toà án quân sự Quân khu 9

Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình