Trực T5

14/03/2022 07:26 |

(LSVN) -

CHIỀU

Đề xuất mới về cấp phép nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin mạng

(LSVN) - Bộ Thông tin và Truyền thông đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 13/2018/TT-BTTTT quy định Danh mục sản phẩm an toàn thông tin mạng nhập khẩu theo giấy phép và trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp Giấy phép nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin mạng.

Ảnh minh họa.

Theo đó, dự thảo đề xuất giảm một nửa thời hạn hiệu lực của Giấy phép nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin mạng.

Quy định hiện hành tại Thông tư 13/2018/TT-BTTTT về "Hiệu lực của Giấy phép nhập khẩu như sau": Thời hạn hiệu lực của Giấy phép nhập khẩu là 02 năm hoặc bằng thời hạn hiệu lực của Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng của doanh nghiệp trong trường hợp thời hạn hiệu lực của Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng còn ít hơn 02 năm.

Với nội dung này, dự thảo đề xuất sửa đổi như sau: Thời hạn hiệu lực của Giấy phép nhập khẩu là 01 năm hoặc bằng thời hạn hiệu lực của Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng của doanh nghiệp trong trường hợp thời hạn hiệu lực của Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng còn ít hơn 01 năm.

Dự thảo cũng nêu rõ, Cục An toàn thông tin – Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan cấp Giấy phép nhập khẩu.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày hồ sơ hợp lệ, Cục An toàn thông tin thẩm định và trả kết quả giải quyết hồ sơ cho doanh nghiệp.

Trường hợp đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại Khoản 3 Điều 48 Luật an toàn thông tin mạng, Cục An toàn thông tin cấp Giấy phép nhập khẩu cho doanh nghiệp. Trường hợp không đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định, Cục An toàn thông tin thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp, trong đó nêu rõ lý do không cấp phép.

KHÁNH HUYỀN

Tăng cường kiểm tra xử lý các trường hợp đầu cơ, tăng giá bất hợp lý

1. Các trường hợp hoàn trả tiền mua vé số điện toán từ 28/4/2022

(LSVN) - Đây là nội dung được bổ sung tại Thông tư 18/2022/TT-BTC sửa đổi Thông tư 36/2019/TT-BTC hướng dẫn hoạt động kinh doanh xổ số tự chọn số điện toán.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, Thông tư bổ sung khoản 6 Điều 29 Thông tư số 36/2019/TT-BTC ngày 17/6/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn hoạt động kinh doanh xổ số tự chọn số điện toán. Theo đó, công ty xổ số điện toán phải hoàn trả tiền mua vé xổ số tự chọn số điện toán cho tất cả người tham gia dự thưởng trong các trường hợp sau:

- Lịch quay số mở thưởng được thông báo là bị hủy bỏ do sự cố kỹ thuật hoặc trường hợp bất khả kháng xảy ra do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn nhưng chưa có lịch quay số mở thưởng tổ chức lại; hoặc có lịch quay số mở thưởng lại nhưng thời gian quay số mở thưởng chậm hơn 72 giờ so với lịch ban đầu;

- Kết quả quay số mở thưởng đã công bố bị hủy bỏ theo kết luận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Bộ Tài chính, cơ quan công an, cơ quan thanh tra, kiểm tra).

Công ty xổ số điện toán phải quy định cụ thể thời hạn hoàn trả tiền mua vé xổ số tự chọn số điện toán tại Thể lệ tham gia dự thưởng nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ ngày quay số mở thưởng theo lịch ban đầu hoặc ngày công bố hủy bỏ kết quả quay số mở thưởng của cơ quan có thẩm quyền.

Vé xổ số tự chọn được đề nghị hoàn trả tiền mua vé phải đáp ứng đủ điều kiện như vé xổ số lĩnh thưởng quy định tại khoản 2 Điều 29 Thông tư 36/2019/TT-BTC.

Ngoài ra, Thông tư 18/2022/TT-BTC còn sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 17 quy định về địa điểm quay số mở thưởng. Cụ thể, việc quay số mở thưởng xổ số tự chọn số điện toán được thực hiện tại trụ sở chính của công ty xổ số điện toán hoặc tại các địa điểm khác nhưng phải nằm trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh, thành phố nơi công ty xổ số điện toán đặt trụ sở chính hoặc nơi công ty xổ số điện toán có Chi nhánh. So với hiện hành bổ sung địa điểm quay số mở thưởng là nơi công ty xổ số điện toán có Chi nhánh.

Thông tư 18/2022/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 28/4/2022.

PHƯƠNG HOA

Các hợp đồng 'hứa mua, hứa bán' chính là đang lách Luật Đất đai

2. Cần sửa đổi một số văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống dịch bệnh

(LSVN) - Tác giả cho rằng cần phải sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phòng chống dịch bệnh để đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách và pháp luật.

Ảnh minh họa.

Về lý luận thì nhà nước quản lý xã hội bằng chính sách và pháp luật. Những quan điểm tư tưởng định hướng của nhà nước trong mỗi lĩnh vực là những chính sách nhằm quản lý và phát triển xã hội. Trên cơ sở nội dung chính sách đã được hoạch định thì nhà nước sẽ ban hành pháp luật để thể chế hóa chính sách, đưa chính sách vào đời sống xã hội. Khi xã hội có những thay đổi thì chính sách cũng có thể thay đổi, kéo theo thay đổi pháp luật. Trường hợp chính sách thay đổi nhưng chưa thay đổi pháp luật thì sẽ có những mâu thuẫn giữa chính sách và pháp luật, có thể kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến sự quản lý nhà nước. Bởi vậy mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật là mối quan hệ biện chứng, có sự tác động qua lại để cùng phát triển, thực hiện mục tiêu quản lý và phát triển xã hội.

Đối với phòng chống dịch bệnh Covid-19 thì đây là nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của đảng và nhà nước ta trong những năm qua. Phòng chống dịch bệnh Covid-19 và phát triển kinh tế xã hội là nhiệm vụ kép, ưu tiên phòng chống dịch bệnh hay ưu tiên phát triển kinh tế xã hội sẽ phụ thuộc vào diễn biến tình hình dịch bệnh và kết quả phòng chống dịch bệnh trong mỗi thời kỳ.

Dịch bệnh Covid-19 là "cơn ác mộng" đối với nhiều quốc gia, tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của người dân và thiệt hại cho nền kinh tế. Quá trình phòng chống dịch bệnh có thể chia ra làm hai thời kỳ là thời kỳ trước khi có vaccine, thuốc hỗ trợ điều trị và thời kỳ sau khi có vaccine.

Thời kỳ trước khi có vaccine thì hậu quả của dịch bệnh gây ra với tính mạng, sức khỏe con người, với nền kinh tế là đặc biệt nghiêm trọng. Những nạn nhân thiệt mạng do dịch bệnh ở Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Châu Âu thời kỳ năm 2020 và rất lớn nên chính sách pháp luật của Việt Nam về phòng chống lại dịch bệnh này cũng rất quyết liệt theo hướng là kiểm soát chặt chẽ từ thủ tục xuất nhập cảnh. Khi phát hiện những ca bệnh thì quyết liệt trong việc truy vết, cách ly, khoanh vùng để tránh dịch bệnh lây lan. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu trong phòng chống dịch bệnh này thì những hành vi vi phạm quy định về phòng chống dịch bệnh như đưa tin sai sự thật, vi phạm quy định về khai báo y tế, cách ly y tế, vi phạm quy định về hoạt động kinh doanh, đi lại, cư trú, xuất nhập cảnh bị xử lý nghiêm minh, nhiều trường hợp bị áp dụng chế tài hình sự về các tội như: Tội "Làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm chuyền nhiễm cho người", tội "Vi phạm quy định an toàn nơi đông người", tội "Đưa hoặc sử dụng trái phép trên mạng internet", tội "Tổ chức môi giới cho người khác nhập cảnh phải ở lại Việt Nam trái phép",... nhiều trường hợp đã bị phạt tiền, phải chấp hành hình phạt tù để đảm bảo các quy định về phòng chống dịch bệnh được thực hiện nghiêm túc.

Các chế tài hành chính và hình sự thể hiện tính nghiêm khắc của pháp luật để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Kết quả áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống dịch bệnh cơ bản khiến dịch bệnh được kiểm soát tốt, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của dịch bệnh gây ra đối với xã hội.

Bước sang năm 2021, khi đã có vaccine phòng Covid-19 và Việt Nam đã mua, ngoại giao được số lượng vaccine rất lớn để tiêm ngừa vaccine cho đại đa số nhân dân thì chính sách về phòng chống dịch bệnh đã có thay đổi. Từ chính sách quản lý chặt chẽ, khoanh vùng diện rộng, truy vết và xử lý y tế, cách ly y tế triệt để đối với những trường hợp nhiễm bệnh và nghi ngờ mắc bệnh, xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm quy định về phòng chống dịch bệnh bằng các chế tài hành chính hoặc hình sự. Thì nay đã chuyển sang thực hiện chính sách là "thích ứng linh hoạt" theo Nghị quyết 128 của Chính phủ, tiến tới bình thường hóa với Covid-19.

Tuy nhiên, khi chính sách đã thay đổi nhưng các quy định của pháp luật hiện nay về phòng chống dịch bệnh vẫn chưa thay đổi. Cụ thể, theo quy định của Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm thì những người tiếp xúc với người mắc bệnh, những người đi qua vùng dịch, tiếp xúc với mầm bệnh thì vẫn phải khai báo y tế, thực hiện cách ly y tế, xử lý y tế theo quy định. Trường hợp khai báo gian dối, không khai báo y tế, không tuân thủ quy định về hạn chế kinh doanh mà làm lây lan dịch bệnh ra cộng đồng thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 240 hoặc Điều 295 Bộ luật Hình sự. Nội dung này được hướng dẫn cụ thể chi tiết và đã áp dụng nhiều lần tại Công văn số 45/TANDTC-PC.

Trong bối cảnh hiện nay khi chính sách về phòng chống dịch bệnh đã thay đổi, chúng ta thích ứng linh hoạt, tiến tới bình thường hóa với loại dịch bệnh này thì cũng cần sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật để tránh trường hợp những hành vi vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì không truy cứu hoặc xem xét xử lý thì không phù hợp với chính sách mới.

Đối với những người đã bị kết án về các tội danh liên quan đến dịch bệnh mà đến nay mới có sự thay đổi về chính sách thì những người này vẫn tiếp tục phải thi hành bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật. Việc đặc xá, giảm án, tha tù có điều kiện, trên cơ sở các văn bản pháp luật hiện hành.

Còn đối với những trường hợp vi phạm quy định về phòng chống dịch bệnh như không khai báo y tế, không thực hiện việc cách ly y tế làm lây lan dịch bệnh ra cộng đồng, nếu có căn cứ thì vẫn xử lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp không xử lý hình sự thì phải áp dụng quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự là miễn trách nhiệm hình sự.

Cụ thể Điều 29 Bộ luật Hình sự quy định như sau:

Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự

1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi có quyết định đại xá.

2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;

c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác,9 người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng10 gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả11 và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp12 của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Như vậy, trường hợp cơ quan chức năng phát hiện có người vi phạm quy định về phòng chống dịch bệnh, hành vi có dấu hiệu cấu thành tội phạm nhưng nay chính sách về phòng chống dịch bệnh đã thay đổi thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể căn cứ vào Điều 29 Bộ luật Hình sự để miễn trách nhiệm hình sự. Trường hợp cơ quan tố tụng đang tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có liên quan đến phòng chống dịch bệnh nhưng chính sách trả thay đổi thì cũng có thể căn cứ vào quy định tại Điều 29 này để miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ giải quyết vụ án.

Do chính sách về phòng chống dịch bệnh ở Việt Nam đã có thay đổi, tuy nhiên hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc áp dụng chế tài hành chính và hình sự đối với những hành vi vi phạm trong lĩnh vực này chưa có thay đổi nên có sự mâu thuẫn giữa chính sách và pháp luật. Khi áp dụng pháp luật thì cần phải lưu ý đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự khi tình hình đã có chuyển biến, chính sách đã có thay đổi để áp dụng pháp luật một cách mềm dẻo, linh hoạt, trên cơ sở thượng tôn pháp luật.

Nếu không sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật thì có thể dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc xét xử oan sai khi có sự không tương thích giữa chính sách và pháp luật. Không sửa đổi bổ sung kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật có thể gây khó khăn cho công tác áp dụng pháp luật, gây mâu thuẫn, tranh chấp và khiếu kiện trong quá trình áp dụng pháp luật. Bởi vậy nhu cầu về sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan về phòng chống dịch bệnh khi chính sách thay đổi là cần thiết.

Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG

Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp

Tách Luật GTĐB 2008 thành hai luật chuyên biệt: Nên hay không?

3. Đề xuất cấp chứng nhận F0 và F0 khỏi bệnh như một dịch vụ công trực tuyến

(LSVN) - Bộ Thông tin và Truyền thông vừa có văn bản gửi Bộ Y tế đề nghị cân nhắc việc coi chứng nhận F0 và F0 khỏi bệnh như là một dịch vụ công trực tuyến và thực hiện như cung cấp dịch vụ công trực tuyến.

Ảnh minh họa.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông việc nhiều người nhiễm Covid-19 (F0) thực hiện tự điều trị tại nhà đã phần nào giúp giảm gánh nặng cho các cơ sở y tế ở khía cạnh điều trị, nhưng lại đang tạo ra một áp lực khác trong việc chứng nhận F0 và F0 khỏi bệnh.

Thực tế số lượng F0 quá đông trong khi lực lượng cán bộ y tế mỏng, khiến nhiều cơ sở y tế xảy ra hiện tượng quá tải, đồng thời gia tăng nguy cơ lây nhiễm chéo trong cộng đồng. Điều này khiến một bộ phận người dân sau khi phát hiện nhiễm Covid-19 qua tự xét nghiệm nhanh đã cách ly tại nhà mà không khai báo với chính quyền hoặc cơ quan y tế.

Vì vậy, để giải quyết vấn đề này, Bộ Thông tin và Truyền thông đã nghiên cứu và chỉ đạo các đơn vị phát triển phần mềm quản lý ca bệnh Covid-19 và đề nghị Bộ Y tế xem xét, đánh giá áp dụng. Vừa qua, một số địa phương đã chủ động áp dụng và bước đầu đã có hiệu quả nhất định.

Tuy nhiên, về quy trình thủ tục chứng nhận F0 cho người dân, Bộ Y tế cần sớm nghiên cứu và đề xuất phương án hiệu quả, đồng thời hướng dẫn địa phương triển khai áp dụng công nghệ để quản lý và tạo thuận tiện cho người nhiễm và khỏi bệnh Covid-19.

Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đề nghị Bộ Y tế cân nhắc việc coi chứng nhận F0 và F0 khỏi bệnh như là một dịch vụ công trực tuyến và thực hiện như cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tạo thuận lợi cho người dân trong giai đoạn mới.

Hiện nay, số ca nhiễm Covid-19 trên cả nước đang tăng nhanh, đặc biệt là tại Hà Nội với số ca F0 ghi nhận được hằng ngày đã vượt ngưỡng 25.000 ca. Việc chứng nhận F0 và F0 khỏi bệnh một mặt giúp người lao động được hưởng các chế độ và quyền lợi theo quy định; đồng thời, sẽ giúp các cơ quan y tế thực hiện tốt công tác quản lý, thống kê số lượng ca nhiễm một cách chính xác; từ đó phục vụ việc phân tích, dự báo xu hướng dịch bệnh.

Thời gian qua, Bộ Y tế đã tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin y tế trong cải cách thủ tục hành chính, góp phần giảm thời gian, chi phí, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp khi giải quyết thủ tục hành chính của Bộ Y tế, đồng thời giúp công khai, minh bạch, hiện đại hóa các hoạt động của Bộ Y tế trên môi trường Internet, tăng sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với cơ quan nhà nước.

 

HÀ ANH

Các hợp đồng 'hứa mua, hứa bán' chính là đang lách Luật Đất đai

SÁNG

5. Bộ Tư pháp triển khai thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025

(LSVN) - Bộ Tư pháp vừa ban hành Chỉ thị số 02/CT-BTP triển khai thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.

Ảnh minh họa.

Chỉ thị nêu rõ, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; tác động của đại dịch Covid-19 dự báo còn kéo dài, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 23/5/2021 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã khẳng định: việc xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch đầu tư công trung hạn có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng, góp phần tạo năng lực sản xuất mới, thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cả trong ngắn hạn và trung, dài hạn.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngày 06/10/2021, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 (kèm theo Quyết định số 1511/QĐ-BTP) nhằm cụ thể hóa chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 1535/QĐ-TTg ngày 15/9/2021 về việc giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025.

Với mục tiêu khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, đồng thời triển khai Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của Bộ Tư pháp đúng tiến độ, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, Bộ trưởng Bộ Tư pháp yêu cầu Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán triệt, tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp.

Đặc biệt, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm, đầy đủ, hiệu quả các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và yêu cầu, hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về công tác đầu tư công. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác đầu tư, tập trung hoàn thành đúng yêu cầu, đúng mục đích, đúng quy định đối với các dự án được giao trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của Bộ Tư pháp.

Cụ thể, đẩy nhanh, tổ chức thực hiện dứt điểm các nhóm dự án đã và đang triển khai trong giai đoạn 2016-2020 chuyển sang thực hiện tiếp trong giai đoạn 2021-2025, bao gồm các nhóm dự án: Nhóm dự án chậm quyết toán dự án hoàn thành, nhóm dự án đang thi công xây dựng, nhóm các dự án vướng mắc chưa thể khởi công. Chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ thi công công trình; khẩn trương nghiệm thu, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng, thực hiện các thủ tục thanh toán vốn đầu tư cho dự án theo đúng thời hạn quy định, không để dồn thanh toán vào cuối năm, không gây nợ đọng xây dựng cơ bản.

Đối với các dự án khởi công mới giai đoạn 2021-2025, bao gồm nhóm dự án về công nghệ thông tin; nhóm dự án đầu tư xây dựng khối các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ; nhóm dự án xây dựng trụ sở hệ thống cơ quan thi hành án dân sự địa phương: Chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết để triển khai, bảo đảm phù hợp với mục tiêu, định hướng đầu tư công trung hạn của Bộ; chú trọng công tác chuẩn bị đầu tư, đảm bảo chất lượng cho việc lập và phê duyệt dự án, hạn chế phải điều chỉnh trong quá trình triển khai; thực hiện đúng quy trình đầu tư; triển khai đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, sớm hoàn thành, đưa các công trình đi vào sử dụng, phát huy hiệu quả thực tế.

Phấn đấu tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 100% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao; hoàn thành và quyết toán 100% các dự án chuyển tiếp, 80% dự án khởi công mới trong giai đoạn 2021-2025.

Khẩn trương rà soát, đề xuất xây dựng, hoàn thiện thể chế nội bộ về quản lý đầu tư công của Bộ Tư pháp theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; hướng dẫn trình tự, thủ tục, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân gắn với thực hiện nhiệm vụ đầu tư, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho việc triển khai Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của Bộ Tư pháp.

Tăng cường vai trò tham mưu của cơ quan chuyên môn trong quản lý đầu tư đối với cấp quyết định đầu tư; gắn trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, chủ đầu tư dự án trong thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021- 2025. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ phải phát huy tinh thần trách nhiệm, nêu gương của người đứng đầu, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, kỷ luật, kỷ cương, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ.

Thực hiện nghiêm các quy định về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong triển khai kế hoạch đầu tư công. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với toàn bộ quá trình triển khai dự án đầu tư ngay từ giai đoạn chuẩn bị thực hiện dự án để kịp thời phát hiện, khắc phục những sai sót, hạn chế; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm, cố tình cản trở, gây khó khăn, làm chậm tiến độ thực hiện kế hoạch đầu tư..

Chủ động rà soát, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân sự làm công tác quản lý đầu tư, công nghệ thông tin thuộc Bộ; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức này. Tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho Chủ đầu tư để chủ động hơn trong việc triển khai dự án.

Bên cạnh đó, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Trung ương như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan chức năng có thẩm quyền tại địa phương trong quá trình triển khai Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của Bộ Tư pháp. Tăng cường công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giữa các đơn vị thuộc Bộ, các Cục Thi hành án dân sự địa phương trong quá trình triển khai thực hiện dự án, giữa Chủ đầu tư dự án và đơn vị sử dụng công trình.

HỒNG HẠNH

Ngăn chặn các luận điệu chống đối công tác phòng, chống dịch

1. Kinh nghiệm phát hiện vi phạm tại Bản án, quyết định của Tòa án để thực hiện quyền kháng nghị

(LSVN) - Thực tiễn cho thấy số lượng kháng nghị phúc thẩm án hành chính được ban hành còn ít hơn so với tổng số án hủy sửa, đặc biệt là trong các vụ án bị kháng cáo có vi phạm pháp luật về nội dung, thủ tục tố tụng nhưng VKSND cùng cấp chưa phát hiện để kháng nghị kịp thời, vẫn còn những kháng nghị chưa vững chắc, không được Tòa chấp nhận. Để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm sát án hành chính, VKSND Tối cao ban hành thông báo về một số kinh nghiệm phát hiện vi phạm tại bản án, quyết định của Tòa án giải quyết vụ án hành chính để thực hiện quyền kháng nghị.

Ảnh minh họa.

Theo đó, những vi phạm của Bản án hành chính gồm các dạng sau đây: 

Thứ nhất, vi phạm nghiêm trọng trong việc xác minh thu thập, đánh giá chứng cứ dẫn đến áp dụng pháp luật không đúng là nguyên nhân phổ biến dẫn đến hủy án, sửa án.

Những vi phạm này được thể hiện ở các dạng cụ thể  như: Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ, không tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, sử dụng tài liệu chứng cứ không có giá trị pháp lý làm căn cứ, không xem xét toàn diện khách quan, dẫn đến việc đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện, nhận định kết luận nội dung vụ việc không đầy đủ, không đúng sự thật khách quan, từ đó đưa ra các quyết định giải quyết vụ án thiếu căn cứ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, những vi phạm này của Tòa án cần phải được kháng nghị để sửa hoặc hủy án.

Thứ hai, Tòa án đánh giá chứng cứ không đúng nên không phát hiện thẩm quyền, trình tự, thủ tục và nội dung quyết định hành chính có vi phạm.

Quyết định hành chính có vi phạm về thẩm quyền thường được thể hiện dưới dạng tranh chấp về nhà đất là di sản thừa kế, tranh chấp đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có giấy tờ của chế độ cũ, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhưng UBND lại  thụ lý, giải quyết bằng quyết định hành chính là sai thẩm  quyền. Sau đó quyết định hành chính bị khởi kiện lẽ ra phải hủy quyết định để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự nhưng Tòa án vẫn giải quyết theo hướng công nhận quyết định hành chính, những vi phạm này cần kháng nghị phúc thẩm để hủy bản án sơ thẩm giải quyết lại hoặc sửa bản án hành chính.

Ngoài ra, trong thực tế những năm qua, loại vi phạm nghiêm trọng của Tòa án sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, không tiến hành thẩm định tại chỗ để làm rõ bản chất sự thật khách quan nên khi giải quyết các vụ án nêu trên cần kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để giải quyết lại vụ án đảm bảo tính toàn diện và triệt để, tránh kéo dài vụ án.

Thứ ba, một số vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung.

Vi phạm pháp luật nội dung là việc Tòa án thụ lý, giải quyết đã không căn cứ vào các quy định của pháp luật chuyên ngành hoặc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án không đúng với tình tiết khách quan của vụ án nên dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng quy định của pháp luật.

Thứ tư, vi phạm trong áp dụng văn bản pháp luật không đúng thời điểm xảy ra sự kiện pháp lý hoặc áp dụng không đúng văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành cần thiết phải kháng nghị để xét xử lại.

Chẳng hạn, trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp năm 1994, nhưng Tòa án lại áp dụng Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 để đánh giá việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng hay không. Trường hợp nhà nước bán nhà ở thuộc sở hữu nhà ở vào năm 1992, nhưng lại áp dụng quy định tại Nghị định 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ để xem xét giải quyết vụ án là không đúng.

Trường hợp xác định sai quan hệ pháp luật có tranh chấp đang được xem xét, giải quyết dẫn đến lựa chọn quy định pháp luật để giải quyết không đúng, hoặc xác định sai quy định của pháp luật cần áp dụng để giải quyết vụ án do nhận thức chủ quan, dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ năm, vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ trong việc đánh giá  tính hợp pháp của  quyết  định hành chính bị kiện không phù hợp với quy định của pháp luật.

Ví dụ: Vụ án hành chính của bà  D. ở thành phố Đ, tỉnh B. Theo bản đồ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cũ  lập năm 2003, thì gia đình bà D. sử dụng 612m2 gồm 9 thửa đất. Năm 2018, để xây dựng  Trung tâm Thương mại, UBND thành phố Đ ra quyết định số 423/QĐ-UBND ngày 20/6/2008 thu hồi và điều chỉnh dất của bà Đ, có diện tích 488m2 gồm 8 thửa đất, sau đó trừ đi 83m2 đất hành lang giao thông và 415m2 đất lấn chiếm,còn lại 488 – 83 – 145 = 260m2 được tính bồi thường. Bà D. khiếu kiện yêu cầu được bồi thường toàn bộ số  đất thực tế bị thu hồi. Tòa án sơ thẩm đã xử bác đơn yêu cầu khởi kiện của bà D.

Xét thấy UBND thành phố Đ đã ra quyết định thu hồi đất không đúng trình tự, thủ tục không tiến hành kiểm đếm tài sản và xác định hiện trạng sử dụng đất, không lập phương án bồi thường và phê duyệt phương án trước khi có quyết định thu hồi đất); bồi thường không đúng thực tế  sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Nghị định số 84/2007/NĐ ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định: ”Nếu diện tích đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất do việc đo đạc thiếu chính xác hoặc kê khai trước đấy của người sử dụng đất không kê khai hết diện tích, nhưng toàn bộ ranh giới thửa đất đã được xác định không tranh chấp với người sử dụng đất liền kề, không do lấn chiếm thì bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế”; xác định là đất lấn chiếm nhưng không có căn cứ đã xử lý vi phạm hành chính…

Vì vậy, cần làm rõ thời điểm bà D. sử dụng đất trước hay sau ngày 15/10/1993 để xác định đất của gia đình bà D., nhưng Tòa án chưa trưng cầu ý kiến của cơ quan chuyên môn xem số tiền thuế đã nộp ghi trong biên lai tương ứng diện tích đất  bao nhiêu? Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2010/HCST ngày 04/5/2010 của TAND thành phố Đ đã căn cứ Điều 98 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ để giải quyết nội ding vụ án là không phù hợp và tuyên xử bác đơn khởi kiện của bà D là chưa đúng với các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Từ những vi phạm nêu trên VKSND đã kháng nghị phúc thẩm đối với bản án hành chính này.

Thứ sáu, nhận thức khác nhau về đường lối giải quyết vụ án.

Có 02 trường hợp vụ án hành chính giống nhau cả về đối tượng khởi kiện, thủ tục tố tụng và nội dung vụ án nhưng khi xét xử phúc thẩm (cùng một Tòa án) thì một vụ Tòa án cấp phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện, một vụ Tòa án cấp phúc thẩm nhận yêu cầu khởi kiện và hủy quyết định hành chính. Trường hợp này cần phải kháng nghị giám đốc thẩm.

Thứ bảy, vi phạm về tuyên án chưa đầy đủ.

Có vụ án cần phải buộc cơ quan nhà nước hoặc người trong nhà nước thực hiện nhiệm vụ công vụ nhưng Tòa án không tuyên. Khi tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án tuyên chưa rõ là để xem xét cấp lại cho đúng pháp luật hay để giải quyết tranh chấp hoặc không được cấp giấy chứng nhận. Có trường hợp Tòa tuyên hủy toàn bộ quyết định xử phạt và truy thu thuế, nhưng tuyên không rõ được ra quyết định khác cho đúng pháp luật trong trường hợp này còn có khoản thuế cần phải phạt, phải thu hay không. Hoặc khi Tòa án tuyên hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức do Hội đồng xử lý kỷ luật không đúng thành phần nhưng tuyên chưa rõ có được xem xét xử lý lại cho đúng hay không.

Những vi phạm nêu trên cần kháng nghị theo hướng sửa hoặc hủy án để đảm bảo tính khả thi của bản án,quyết định và thuận lợi trong việc thi hành án hành chính.

Để có căn cứ kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm đòi hỏi Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, phải kiểm sát chặt chẽ thủ tục tại phiên tòa, theo dõi diễn biến phiên tòa để nắm bắt được nội dung vụ án, việc vận dụng pháp luật để giải quyết vụ án của Tòa án, những vi phạm thiếu sót của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; đồng thời phải kiểm sát chặt chẽ Bản án, quyết định, từ đó đối chiếu với những quy định của pháp luật mới phát hiện ra những vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị.

Luật sư NGUYỄN HỒNG HÀ

Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa

Hướng dẫn kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, hành chính

2. Chế độ đối với cha mẹ nghỉ việc chăm sóc con là F0

(LSVN) - Vừa qua, con trai tôi (5 tuổi) có bị mắc Covid-19 và tôi phải nghỉ việc không lương ở nhà chăm con. Vậy theo quy định, trong trường hợp này tôi được hưởng chế độ ốm đau từ bảo hiểm xã hội như thế nào? Bạn đọc T.K. hỏi.

Ảnh minh họa.

Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, với chế độ ốm đau, căn cứ quy định tại Điều 25 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người lao động bị ốm đau hoặc phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm đau mà có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền, sẽ được hưởng chế độ ốm đau.

Chế độ này hiện được áp dụng để chi trả cho người lao động bị mắc Covid-19 và nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị mắc Covid-19.

Về hồ sơ hưởng, theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Bộ trưởng Bộ Y tế quy định mẫu, trình tự, thẩm quyền cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội, giấy ra viện và các giấy tờ khác làm căn cứ hưởng bảo hiểm xã hội.

Bộ Y tế đã có các Công văn số 1492/KCB-PHCN&GĐ ngày 19/11/2021, Công văn số 238/BYT-KCB ngày 14/01/2022, theo đó, hồ sơ hưởng chế độ ốm đau đối với NLĐ bị ốm đau thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 100 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; khoản 1, 2 Điều 21 Thông tư số 56/2017/TT-BYT của Bộ Y tế. Cụ thể, hồ sơ đề nghị hưởng (đối với người lao động là F0 hoặc chăm con dưới 7 tuổi là F0) gồm giấy tờ sau:

- Đối với người lao động là F0 điều trị nội trú: Giấy ra viện.

- Đối với người lao động là F0 điều trị ngoại trú: Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội hoặc Giấy ra viện có chỉ định của y, bác sỹ điều trị cho nghỉ thêm sau thời gian điều trị nội trú.

Thời gian hưởng chế độ được giới hạn tối đa theo khoản 1 Điều 27 Luật Bảo hiểm xã hội như sau: Con dưới 3 tuổi thì số ngày hưởng chế độ tối đa 20 ngày/năm/con; Con từ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi thì số ngày hưởng chế độ tối đa 15 ngày/năm/con.

Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm cho mỗi con được tính theo số ngày chăm sóc con tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 03 tuổi; tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi.

Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội thì thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau của mỗi người cha hoặc người mẹ theo quy định.

Về mức hưởng, tại khoản 1 Điều 28 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định, trong thời gian nghỉ, người lao động sẽ được hưởng 75% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Như vậy, trong trường hợp này thì bạn được hưởng chế độ ốm đau từ bảo hiểm xã hội và mức hưởng là 75% tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ. Lưu ý khi nộp đầy đủ giấy tờ ghi nhận con bạn là F0.

HỒNG HANH

Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm

3. Hoàn thiện quy định của pháp luật để đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong vụ án hình sự
    
(LSVN) – Bài viết này góp phần chỉ ra một số quy định của pháp luật cần được hoàn thiện để đảm bảo hoạt động bào chữa của Luật sư được thực thi trên thực tế, qua đó cũng góp phần thúc đẩy hoàn thiện quá trình cải cách tư pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay.

Ảnh minh họa.

Đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình cải cách tư pháp, qua đó để đảm bảo các vụ án hình sự được xét xử một cách khách quan, công bằng, tránh oan, sai nhằm đảm bảo quyền con người, bảo đảm công lý được thực thi.

Thời gian qua, nhiều quy định của pháp luật đã có những giải pháp ngày càng hoàn thiện để đảm bảo hoạt động bào chữa của Luật sư, tuy nhiên thực thi quyền này trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc khiến cho quyền của Luật sư chưa được thực thi một cách thuận lợi và hiệu quả.

Bài viết này góp phần chỉ ra một số quy định của pháp luật cần được hoàn thiện để đảm bảo hoạt động bào chữa của Luật sư được thực thi trên thực tế, qua đó cũng góp phần thúc đẩy hoàn thiện quá trình cải cách tư pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay.

Quyền bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) có quyền tự mình bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa trước những cáo buộc của cơ quan có thẩm quyền về một hành vi phạm tội. Quyền bào chữa đã được Hiến pháp 2013 lần đầu tiên ghi nhận là một trong các quyền con người cần được bảo vệ [1] và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật  quy định các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải có trách nhiệm đảm bảo quyền bào chữa được thực thi trên thực tế [2]. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tại Điều 16 quy định bảo đảm quyền bào chữa là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và đảm bảo cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa.

Có thể phát huy hết giá trị của nguyên tắc này và tạo được khả năng cân bằng bảo vệ người bị buộc tội trước những cáo buộc của cơ quan công tố phần lớn hiện nay phụ thuộc vào Luật sư. Đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa cũng là đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình cải cách tư pháp, đảm bảo các vụ án hình sự được xét xử một cách khách quan, công bằng, tránh oan, sai nhằm đảm bảo quyền con người, bảo đảm công lý được thực thi.

 Thời gian qua, nhiều quy định của pháp luật tư pháp hình sự và pháp luật Luật sư đã có những giải pháp ngày càng hoàn thiện để đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự. Tuy nhiên việc thực thi trên thực tế vẫn tồn tại nhiều vướng mắc chính từ quy định pháp luật khiến cho các quyền của Luật sư chưa được thực thi một cách thuận lợi và hiệu quả. Vận dụng các quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong thực tế hành nghề, các tác giả nhận thấy còn một số bất cập và chúng tôi có một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (“BLTTHS 2015”), cụ thể như sau:

Thứ nhất, kiến nghị bỏ quy định về đăng ký bào chữa

Theo BLTTHS 2015, trong mọi trường hợp tham gia tố tụng hình sự, người bào chữa dù là Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý đều phải thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ các giấy tờ đăng ký từ người bào chữa, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và nếu thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa. Các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền từ chối việc đăng ký Luật sư nhưng phải nêu rõ lý do [3].

Theo các tác giả, việc quy định đăng ký bào chữa như một thủ tục hành chính xin - cho như hiện nay đã trực tiếp cản trở hoạt động của người bào chữa và làm phức tạp hóa việc thực thi một quyền con người đã được hiến định. Trên thực tế quy định này có thể làm cho người bào chữa tham gia tố tụng bị chậm trễ, nhiều trường hợp bị kéo dài thời gian đăng ký trong khi cơ quan điều tra lại không chờ cho đến khi nào người bào chữa đăng ký xong mới lấy lời khai. BLTTHS quy định cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt; phải hỏi cung bị can ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can [4] trong khi người bào chữa phải chờ 24 giờ hoặc một thời gian lâu hơn để cơ quan tiến hành tố tụng đăng ký bào chữa mới thực hiện được quyền của mình.

Cùng với đó, chúng tôi cho rằng việc bào chữa của Luật sư xuất phát từ đề nghị của người bị buộc tội, chỉ cần ý kiến của người bị buộc tội đã phát sinh tư cách bào chữa của Luật sư mà không cần phải chờ đợi sự đồng ý của cơ quan tiến hành tố tụng mới được thực hiện. Do vậy, chúng tôi kiến nghị bỏ thủ tục đăng ký bào chữa, thay vào đó, người bào chữa chỉ cần trình cơ quan tiến hành tố tụng những giấy tờ cần thiết cho việc bào chữa như giấy yêu cầu Luật sư của người bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội (không áp dụng với trường hợp chỉ định người bào chữa), Thẻ Luật sư (với người bào chữa là Luật sư), văn bản cử người của Uỷ ban Mật trận Tổ quốc Việt Nam (với bào chữa viên nhân dân),… là đã được thực hiện ngay các hoạt động bào chữa, bảo vệ thân chủ của mình.

Việc xác minh lại các trường hợp không được bào chữa thuộc công việc nội bộ của cơ quan tiến hành tố tụng mà không làm ảnh hưởng đến quyền của Luật sư. Nếu phát hiện thuộc các trường hợp không được bào chữa đã được quy định, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể hủy bỏ tư cách bào chữa. Hơn nữa, nếu thực sự có trường hợp gian dối, trường hợp người không đủ tư cách bào chữa đăng ký bào chữa thì trong vòng 24 giờ cũng không khả thi để xác minh. Việc người bào chữa khi thực hiện quyền của mình phải xuất trình giấy tờ chứng minh đủ tư cách bào chữa là đảm bảo cho hoạt động bào chữa, đồng thời người bị buộc tội trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình điều tra, truy tố, xét xử cũng đều có thể từ chối người bào chữa nếu họ muốn, do đó không cần phải làm các thủ tục phức tạp xác minh ý kiến của họ.

Thứ hai, kiến nghị bổ sung quyền của người bị buộc tội được tạm hoãn các thủ tục tố tụng để chờ sự tham vấn của người bào chữa

Quyền của người bị buộc tội được quy định từ các Điều 58 đến Điều 61 BLTTHS 2015; theo nội dung các điều này, người bị buộc tội không có quyền được đề nghị tạm hoãn các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian hợp lý để chờ sự tham vấn của người bào chữa. Điều 73 BLTTHS 2015 cũng không quy định người bào chữa được quyền xin tạm hoãn các thủ tục tố tụng để có đủ thời gian nghiên cứu về vụ việc để thực hiện việc bào chữa. Thực tế, có những vụ án hình sự người bào chữa được mời bào chữa gấp rút, hoặc đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo mới lựa chọn người bào chữa khiến cho người bào chữa không đủ thời gian để tiếp xúc bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ việc để đưa ra hướng bào chữa tốt nhất. Việc bổ sung quyền của người bị buộc tội được quyền yêu cầu tạm hoãn các thủ tục tố tụng trong một khoảng thời gian hợp lý để chờ được sự trao đổi, tham vấn của người bào chữa là cần thiết.

Quyền được tạm hoãn thủ tục tố tụng để được sự tham vấn của người bào chữa đã được pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia ghi nhận. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 quy định mọi người đều có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn. Quy định này cũng được tìm thấy trong Công ước châu Âu về Bảo vệ Nhân quyền và các Quyền Tự do Cơ bản (đoạn 1 Điều 6), Công ước châu Mỹ về Nhân quyền (Điều 2), Hiến chương Arập về Nhân quyền (Điều 16), Nguyên tắc và Hướng dẫn về Quyền đượcXét xử Công bằng và Trợ giúp Pháp lý ở Châu Phi, năm 2001…[5] Tại Đức và Australia quyền này cũng được thừa nhận và áp dụng trên thực tế [6].

Do vậy, xuất phát từ nhu cầu của thực tế phát sinh và tiếp thu những nội dung tiến bộ của pháp luật quốc tế, các tác giả kiến nghị bổ sung quyền cho người bị buộc tội được tạm hoãn các thủ tục tố tụng để chờ sự tham vấn của người bào chữa.

Thứ ba, kiến nghị mở rộng đối tượng được chỉ định người bào chữa

Luật sư có thể được cử để tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự có người bị buộc tội có quyền được có người bào chữa chỉ định. Khoản 1 Điều 76 BLTTHS 2015 quy định bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi là những đối tượng được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa khi họ, người đại diện hoặc người thân thích không mời người bào chữa.

Phạm vi những người được quyền có người có người bào chữa chỉ định như trên của pháp luật Việt Nam nếu đối chiếu với các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người thì có thể thấy còn rất hạn chế. Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc năm 1976 (ICCPR), Quy chế Roma của Tòa án hình sự quốc tế 1998, Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư năm 1990 … đều quy định người bị buộc tội có quyền được chỉ định trợ giúp pháp lý miễn phí với điều kiện người đó “không có đủ khả năng chi trả” và “vì lợi ích công lý” (căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hình phạt mà người đó thể phải đối mặt và họ không thể tự mình bào chữa) [7].

Pháp luật Đức tại Điều 140 Bộ luật tố tụng hình sự quy định các trường hợp bắt buộc phải có sự tham gia và có mặt của Luật sư bào chữa, trong đó có cả các trường hợp khi bị can/bị cáo đang bị giam giữ, bị tam giam; bị can/bị cáo bị truy tố về một tội nghiêm trọng hay quá trình tố tụng có thể dẫn đến lệnh cấm làm một công việc nhất định;… Ngoài ra, trong những trường hợp khác, thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ chỉ định người bào chữa theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật nếu sự trợ giúp của Luật sư là rất cần thiết bởi tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, hoặc bởi sự khó khăn của sự việc hay vụ án, hoặc nếu có bằng chứng cho rằng người bị buộc tội không thể tự bào chữa cho chính họ. Yêu cầu người bào chữa của người bị buộc tội bị khiếm khuyết về khả năng nghe và nói cũng sẽ được đảm bảo [8]. Với Cộng hòa Liên Bang Nga, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2001 quy định Luật sư biện hộ phải có mặt tại phiên tòa trong những trường hợp xét xử có bồi thẩm đoàn, vụ án liên quan đến người chưa thành niên, người không có năng lực hành vi hoặc bị cáo không nói được tiếng Nga hay liên quan đến những tội phạm có thể bị phạt tù trên 15 năm [9]. Ở Mỹ, quyền được chỉ định người bào chữa được áp dụng cho những trường hợp bị cáo buộc về hình phạt tù [10],…

Đối chiếu với các quy định tiến bộ nêu trên, các tác giả đề xuất hướng mở rộng đối tượng được bắt buộc chỉ định bào chữa, cần áp dụng quy định này đối với cả người phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hoặc những trường hợp đặc thù khác.

Cùng với đó, việc xác định như thế nào là một người có nhược điểm về tinh thần, nhược điểm về thể chất trong bối cảnh hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng là rất khó khăn, đặc biệt đối với các trường hợp các nhược điểm này không phải là bẩm sinh mà mới xuất hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Do vậy, cần có quy phạm hướng dẫn cụ thể vấn đề này, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng khi phát hiện người bị buộc tội có các nhược điểm thể chất, tinh thần ảnh hưởng để khả năng tự bảo vệ, bào chữa cho mình và quy định rõ giá trị của các lời khai, chứng cứ được xác lập trong thời gian phát sinh các nhược điểm về tinh thần, thể chất của người bị buộc tội.

Thứ tư, kiến nghị về quyền Luật sư được giao tiếp bí mật, hoàn toàn riêng tư với người bị buộc tội

Theo Điều 73 BLTTHS 2015 quy định có hai trình tự cuộc gặp của người bào chữa với người bị buộc tội: (1) Cuộc gặp, hỏi, làm việc riêng, chủ động của người bào chữa với người bị buộc tội và (2) Người bào chữa tham gia lấy lời khai, hỏi cung theo kế hoạch của cơ quan điều tra; chỉ được đặt đâu hỏi khi điều tra viên đồng ý, nếu được phép đặt câu hỏi và trả lời thì nội dung phải ghi rõ trong biên bản, Luật sư đọc lại, xác nhận và ký tên trên biên bản.      

Với cuộc gặp riêng giữa Luật sư và người bị buộc tội được hướng dẫn tại Điều 12 Thông tư 46/2019/TT-BCA, theo đó cơ sở giam giữ phải giải quyết yêu cầu gặp mặt của người bào chữa, trong trường hợp cần thiết thì báo với cơ quan thụ lý vụ án để cử người tham gia giám sát.

Các quy định nêu trên đã kế thừa các giá trị tiến bộ của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc năm 1976, nguyên tắc số 08 trong Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư 1990: “8. Tất cả những người bị bắt, giam hay cầm tù phải được tạo ra các cơ hội, thời gian và phương tiện đầy đủ để Luật sư đến thăm, và được trao đổi hay tư vấn hoàn toàn riêng với Luật sư không chậm trễ, không bị theo dõi hay kiểm duyệt. Những cuộc tiếp xúc hay tư vấn như vậy, có thể được tiến hành trong tầm nhìn, nhưng không trong tầm nghe của các nhân viên thi hành luật pháp.” Tuy nhiên, với quy định tùy nghi như hiện nay chưa có hướng dẫn như thế nào là “xét thấy cần thiết” để cơ quan tiến hành tố tụng cử người tham gia giám sát nếu áp dụng trên thực tế sẽ rất có khả năng xảy ra các trường hợp xác định theo ý chí của các cơ quan tố tụng mà không có một cơ sở xác đáng.

Thực tế khi thực thi quyền này, các Luật sư đã gặp phải rất nhiều trở ngại, những người tiến hành tố tụng có rất nhiều lý do để từ chối cho Luật sư gặp thân chủ hoặc yêu cầu phải giám sát cuộc gặp này như cho rằng sẽ xảy ra tình trạng thông cung, làm lộ bí mật điều tra, chuyển tin tức tội phạm ra bên ngoài, tư vấn cho bị can, bị cáo không hợp tác với cơ quan điều tra, thay đổi lời khai, vận chuyển những vật dụng trái phép ra/vào trại giam… Những lý do này là lý lẽ chủ quan của các cơ quan tố tụng nhưng lại trực tiếp cản trở đến quyền thăm gặp, giao tiếp của Luật sư, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động bào chữa.

Do vậy, cần thiết chỉnh sửa quy định này theo hướng người bị buộc tội được tạo mọi điều kiện thuận lợi, được phép liên lạc tự do với người bào chữa của mình và những nội dung trao đổi này không bị giám sát. Đồng thời cần có quy định pháp luật giới hạn rõ các trường hợp nào được cho là cần thiết có sự giám sát của cơ quan tiến hành tố tụng với mục đích hạn chế tình trạng tùy nghi áp dụng dẫn đến cản trở quyền của Luật sư.

Thứ năm, kiến nghị sửa đổi quyền của người bào chữa được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can mà không cần sự đồng ý của người có thẩm quyền khi lấy lời khai, hỏi cung

Lời khai của người bị buộc tội trong các lần cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động lấy lời khai, hỏi cung được xác định là một nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự. Không khó để có thể thấy có những kết luận điều tra, cáo trạng, bản án sử dụng lời khai của bị can, bị cáo làm chứng cứ để buộc tội, quy kết trách nhiệm cho họ dù chưa thống nhất, đánh giá các chứng cứ khác. Trước sự quan trọng của các lần lấy lời khai, hỏi cung này, Luật sư cần được trao các quyền cụ thể thực hiện một số hoạt động nhất định.

Theo BLTTHS 2015, người bào chữa được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can nhưng lại chỉ được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can khi người có thẩm quyền đồng ý [11]. Theo quy định này thì việc có cho phép người bào chữa hỏi bị can, người bị bắt, bị tạm giam hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của điều tra viên, kiểm sát viên. Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể các trường hợp nào điều tra viên, kiểm sát viên được từ chối quyền hỏi của người vào chữa. Do vậy, nếu bị từ chối, người bào chữa chưa có cơ sở pháp lý để khiếu nại hành vi này.

Quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam nếu đối chiếu với pháp luật các quốc gia khác sẽ thấy được quyền hạn của Luật sư trong quá trình thẩm vấn tại Việt Nam đã bị hạn chế rất nhiều. Tại Đan Mạch, Luật sư của các bị cáo được dừng cuộc thẩm vấn để tư vấn câu trả lời cho bị cáo hoặc cho bị cáo nhiều lần không trả lời câu hỏi. Ở Bulgaria và Romania, Luật sư có vai trò tích cực hơn, có thể can thiệp vào quá trình thẩm vấn bằng cách tư vấn cho bị cáo, hỏi những câu hỏi, yêu cầu làm rõ câu hỏi, ngừng thẩm vấn và nói rằng bị cáo sẽ không trả lời thêm nữa, yêu cầu đặt lại câu hỏi nếu câu hỏi đang dẫn dắt câu trả lời, yêu cầu soạn lại biên bản hỏi cung cho chính xác, khuyên bị cáo không ký vào biên bản, yêu cầu giải lao để thảo luận với bị cáo… Tại các nước này, điều duy nhất mà Luật sư không thể làm là trả lời thay cho bị cáo [12].

Việc Luật sư đươc quyền hỏi người bị bắt, tạm giữ, bị can trong các buổi hỏi cung, lấy lời khai của điều tra viên, kiểm sát viên không chỉ góp phần làm sáng tỏ các nội dung, tình tiết sự việc đã bỏ sót mà cơ quan tiến hành tố tụng thông qua các câu hỏi có thể biết được định hướng bào chữa của người bào chữa, từ đó xem xét vụ án khách quan và toàn diện hơn. Do vậy, cần có hướng dẫn quy định về quyền hỏi của người bào chữa trong các buổi thẩm vấn của người có thẩm quyền theo hướng người bào chữa có quyền tự do hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can các câu hỏi liên quan đến vụ án. Người có thẩm quyền chỉ được từ chối những câu hỏi không liên quan đến vụ án hoặc có mục đích khác. Việc hỏi của Luật sư phải được lập thành biên bản nêu rõ câu hỏi, câu trả lời, những câu hỏi bị người có thẩm quyền từ chối, lý do từ chối.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung Điều 74 BLTTHS 2015 theo hướng cho phép người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can đối với các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia

Quy định tại Điều 74 BLTTHS 2015 hiện nay đã hạn chế sự tham gia của người bào chữa trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, theo đó, với trường hợp này người bào chữa chỉ được tham gia tố tụng khi kết thúc điều tra. Có ý kiến cho rằng sở dĩ có quy định như vậy là do người bào chữa nếu tham gia ngay từ đầu quá trình tố tụng sẽ không giữ được bí mật điều tra, làm lộ bí mật nhà nước… Theo các tác giả, nếu vì lý do sợ làm lộ bí mật điều tra mà hạn chế việc bào chữa của Luật sư là không có cơ sở, không xác đáng và đang mang một tâm lý tiêu cực về người Luật sư. Trong một vụ án hình sự, nhiệm vụ đảm bảo, giữ bí mật điều tra, bí mật an ninh quốc gia không chỉ thuộc về người bào chữa mà những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng khác đều phải thực hiện. Điều 177 BLTTHS 2015 đã quy định trường hợp điều tra viên, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, người tham gia tố tụng tiết lộ bí mật điều tra thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Các cơ chế xử lý trách nhiệm này cũng đã được hoàn thiện [13]. Do vậy, không thể lấy lý do, một nghĩa vụ, trách nhiệm chung và đã có cơ chế xử lý cụ thể để hạn chế quyền tham gia tố tụng của người bào chữa tại giai đoạn điều tra.

Đồng thời, quy định tại Điều 74 BLTTHS 2015 còn không phù hợp với nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền bào chữa, quyền được bảo vệ như nhau. Sự tham gia của người bào chữa ngay từ đầu đối với tất cả các vụ án sẽ đảm bảo hiệu quả thực thi quyền bào chữa và riêng đối với vụ án về tội phạm an ninh quốc gia mang tính nhạy cảm, phức tạp này sự tham gia của người bào chữa còn góp phần đảm bảo hoạt động điều tra được thực hiện toàn diện, đầy đủ và khách quan hơn.

Vì vậy, đối với quy định tại Điều 74 BLTTHS cần thiết sửa đổi theo hướng mở rộng hơn, cho phép người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, hoặc từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ ở tất cả các vụ án hình sự mà không có trường hợp loại trừ nào.

Thứ bảy, bổ sung chế tài xử lý đối với người tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác vi phạm nghĩa vụ hợp tác trong hoạt động thu thập chứng cứ với người bào chữa

So với pháp luật tố tụng hình sự trước đây, BLTTHS 2015 đã bổ sung đầy đủ hơn nội dung quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Người bào chữa được tự mình thu thập chứng cứ, có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa [14]. Nếu người bào chữa gặp khó khăn khi thu thập chứng cứ thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập [15].

Các quy định mới này được kỳ vọng sẽ làm giảm bớt sự cách biệt quá lớn về lợi thế chứng minh giữa bên buộc tội với bên bào chữa. Tuy nhiên, với quy định về nghĩa vụ nhưng không gắn liền với chế tài xử lý như hiện nay sẽ khó đảm bảo các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân, tổ chức, cơ quan liên quan có thể tích cực hợp tác cung cấp chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của người bào chữa. Do vậy, cần thiết phải bổ sung chế tài xử lý đối với người tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác vi phạm nghĩa vụ hợp tác trong hoạt động thu thập chứng cứ với người bào chữa.

Thứ tám, kiến nghị thay đổi trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm

Hiện nay, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo trình tự chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó chủ tọa phiên tòa sẽ quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi sau [16]. Trình tự này là không hợp lý, bởi vụ án hình sự phát sinh là do có sự buộc tội của Viện kiểm sát, cáo buộc của Viện kiểm sát là yếu tố làm khởi động vụ án hình sự, từ đó sẽ làm phát sinh nhu cầu gỡ tội của bị cáo và vai trò độc lập xét xử của Tòa án. Kiểm sát viên phải là chủ thể được đặt câu hỏi trước để chứng minh cho các cáo buộc của mình là có căn cứ, sau đó người bào chữa được tìm kiếm thông tin bào chữa, gỡ tội cho bị cáo thông qua các câu hỏi. Trong khi xét hỏi, Hội đồng xét xử chỉ nên giữ vai trò xét xử khách quan, giữ nhiệm vụ điều hành phiên toà, kiểm soát quá trình tố tụng mà không phải là người thẩm tra.Trách nhiệm của Hội đồng xét xử là xem xét chứng cứ và tranh luận giữa các bên để đưa ra phán quyết.

Việc thay đổi trình tự xét hỏi như nêu trên còn thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc đảm bảo tính tranh tụng khi xét xử vụ án hình sự. Nguyên tắc tranh tụng được Hiến pháp khẳng định cần đến sự phân vai rõ ràng giữa các chủ thể và nhờ đó các chủ thể hình thành ra “hai bên” trong vụ án - bên buộc tội và bên bào chữa với lợi ích tố tụng độc lập, khác nhau và đối lập nhau [17]. Do vậy, khi xét xử vụ án hình sự cần phải đảm bảo bên buộc tội và bên bào chữa được tạo mọi điều kiện để bảo vệ quan điểm, lợi ích của mình, thông qua việc được ưu tiên hỏi trước, được quyền chủ động đặt câu hỏi để chứng minh cho các tình tiết vụ án theo lý lẽ của mình. Đối với vấn đề đảm bảo tính tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 [18] đã tiến bộ hơn khi quy định thứ tự hỏi được thực hiện theo đúng bản chất vụ án dân sự xuất phát từ tranh chấp của các bên; theo đó nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước; tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; những người tham gia tố tụng khác; Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên tham gia phiên tào hỏi sau cùng thể hiện đúng chức năng Hội đồng xét xử điều hành phiên tòa và Kiểm sát viên thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.

Thực tế khi hành nghề chúng tôi đã từng chứng kiến rất nhiều vụ án hình sự Hội đồng xét xử đã thực hiện thay chức năng buộc tội của viện kiểm sát, đặt nhiều câu hỏi mang dụng ý buộc tội, gán ghép trách nhiệm. Nhiều vụ án kiểm sát viên không cần đặt thêm câu hỏi nào để chứng minh căn cứ buộc tội của mình. Các Luật sư, người bào chữa bị cắt câu hỏi, yêu cầu tạm dừng với lý do cho rằng Hội đồng xét xử đã nhắc đến trước đó. Chúng tôi cho rằng mỗi một câu hỏi mang dụng ý của người hỏi, cùng với nội dung nhưng cách đặt vấn đề khác nhau sẽ có thể có các trả lời khác nhau, từ đó nhiều khía cạnh của vụ án mới có thể được đưa ra để xem xét toàn diện. Vì vậy cần thiết ưu tiên quyền đặt hỏi trước với kiểm sát viên (thực hiện chức năng buộc tội) và người bào chữa (thực hiện chức năng gỡ tội), đảm bảo tính tranh tụng của vụ án, đảm bảo Hội đồng xét xử được tiếp cận đầy đủ, toàn diện, khách quan với chứng cứ vụ án để có phán quyết đúng pháp luật và thuyết phục.

Trên đây là các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật để đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong vụ án hình sự được thực thi hiệu quả, từ đó bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của những người bị buộc tội, bảo vệ quyền con người và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác xét xử vụ án hình sự.

[1] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013

“Chương II. QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

… Điều 31. …4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa.”

[2] Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014:

Điều 14. Trách nhiệm chứng minh tội phạm và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự

… Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.

Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa; đương sự khác trong vụ án có quyền tự mình hoặc nhờ người bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.

Tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự.”

- Trách nhiệm đảm bảo quyền bào chữa của Viện kiểm sát được quy định tại Phần II [Về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo] tại Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP, ngày 02/10/2004 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

- Với Cơ quan cảnh sát điều tra có Thông tư 46/2019/TT-BCA, (Bộ Công an, ngày 10 tháng 10 năm 2019) Quy định trách nhiệm của lực lượng công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bộ luật tố tụng hình sự 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.

[3] Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[4] Khoản 1 Điều 114, khoản 1 Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[5] Liên Hợp Quốc (tháng 01/2014), Tiếp cận sớm trợ giúp pháp lý trong quá trình tố tụng hình sự: Sổ tay cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực tiễn.

[6] Liên Hợp Quốc, (tháng 08/2010), Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam.

[7] Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976: “Điều 14…3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng nhưng bảo đảm tối thiểu sau đây:

d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả;…”

Điều 14.3(d) Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976,

Quy chế Roma của Tòa án hình sự quốc tế 1998, có hiệu lực từ ngày 01/7/2002“Điều 67. Quyền của bị cáo …d. Căn cứ vào Điều 63, khoản 2, được có mặt khi xét xử, được tự mình bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của bị cáo, được thông báo, nếu bị cáo không có trợ giúp pháp lý, về quyền này và được nhận sự trợ giúp pháp lý do Tòa án chỉ định trong bất kỳ trường hợp nào nếu điều đó là cần thiết để bảo đảm công lý, và miễn phí nếu bị cáo không đủ điều kiện chi trả;”

Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư, 1990: “Những bảo vệ đặc biệt trong các vấn đề tư pháp hình sự: …5. Các chính phủ phải bảo đảm rằng, mọi người đều được cơ quan chức năng có thẩm quyền thông báo ngay lập tức về quyền được một Luật sư trợ giúp theo sự lựa chọn của họ, ngay khi bị bắt hay bị giam giữ hoặc khi bị cáo buộc phạm tội hình sự.6. Bất cứ ai trong hoàn cảnh trên mà không có Luật sư riêng, thì trong mọi trường hợp công lý đòi hỏi như vậy, đều có quyền có một Luật sư có kinh nghiệm và năng lực phù hợp với tính chất của tội phạm đã quy kết cho họ để hỗ trợ pháp lý một cách hiệu quả, và miễn phí nếu họ không có đủ khả năng chi trả những dịch vụ như vậy.:”

[8] Nguyễn Quyết Thắng (2015), Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/208298/Quyen-bao-chua-trong-to-tung-hinh-su-Cong-hoa-Lien-bang-duc.html, truy cập lần cuối ngày 05/6/2021.

[9] Mô hình tố tụng hình sư Liên Bang Nga, https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/145, truy cập lần cuối ngày 05/6/2021.

[10] Xem án lệ: Bett v. Brady, 316 U.S 455 (1942), Gideon v, Wainwright 372 U.S.335 (1963), Argersinger  v. Hamlin, 407, U.S 25 (1972).

[11] Điểm b khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[12] https://op.europa.eu/en/publication-detail/-/publication/9e42de7a-e0dc-11e9-9c4e-01aa75ed71a1/language-en,truy cập lần cuối ngày 05/6/2021.

[13] Các quy định chế tài xử lý hành vi tiết lộ bí mật điều tra, bí mật an ninh quốc gia:

- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: “Điều 177. Không được tiết lộ bí mật điều tra

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải yêu cầu người tham gia tố tụng không được tiết lộ bí mật điều tra. Yêu cầu này được ghi vào biên bản.

Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, người tham gia tố tụng tiết lộ bí mật điều tra thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”

- Xử phạt hành chính các hành vi tiết lộ bí mật nhà nước đã được quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/20213 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình; Nghị định 15/2020/NĐ-CP, ngày 03/2/2020 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.

- Trường hợp hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể bị truy tố hình sự về Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước theo Điều 337 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 hoặc các tội phạm khác nếu đủ yếu tố cấu thành.

[14] Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[15] Khoản 3 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[16] Xem tại khoản 2 Điều 307, khoản 1 Điều 354 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[17] Lê Nguyên Thanh (2015), Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08, trang 17-23.

[18] Xem tại Điều 249 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công an, Thông tư 46/2019/TT-BCA, ngày 10/10/2019 Quy định trách nhiệm của lực lượng công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bộ luật tố tụng hình sự 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

2. Chính Phủ, Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/20213 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình;

3. Chính Phủ, Nghị định 15/2020/NĐ-CP, ngày 03/2/2020 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử;

4. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP, ngày 02/10/2004 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;

5. Lê Nguyên Thanh (2015), Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08;

6. Liên Hợp Quốc (tháng 08/2010), Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam;

7. Liên Hợp Quốc (1990), Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư;

8. Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị;

9. Liên Hợp Quốc (tháng 01/2014), Tiếp cận sớm trợ giúp pháp lý trong quá trình tố tụng hình sự: Sổ tay cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực tiễn;

10. Liên Hợp Quốc (1998), Quy chế Roma của Tòa án hình sự quốc tế;

11. Mô hình tố tụng hình sư Liên Bang Nga, https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/145, truy cập lần cuối ngày 05/6/2021;

12. Nguyễn Quyết Thắng (2015), Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;

13. Quốc hội, Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, ban hành ngày 27/11/2015 được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017;

14. Quốc hội, Bộ luật tố tụng dân sự 92/2015/QH13 được ban hành ngày 25/11/2015;

15. Quốc hội, Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được han hành ngày 27/11/2015.

Luật sư LÊ CAO - Luật sư TRẦN HẬU

Bàn về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo Điều 54 BLHS

4. Có phương án ứng phó, chữa trị kịp thời tổn thương hậu Covid-19

(LSVN) - Có thể nói, dịch bệnh Covid-19 ở nước ta đã được kiểm soát tốt, cuộc sống đang dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, hiện nay lại phát sinh vấn đề mới, khá nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến thành quả của công cuộc phòng chống dịch khiến dư luận rất quan tâm, lo lắng đó là hội chứng hậu Covid-19. 

Ảnh minh họa.

Theo ghi nhận của các cơ quan chức năng thì đã có một số bệnh nhân Covid-19 sau khi khỏi bệnh đã gặp nhiều vấn đề về sức khỏe, nhất là tổn thương phổi, suy hô hấp, sức khỏe giảm sút nghiêm trọng... Thậm chí đã có bệnh nhân 62 tuổi ở Hà Nội tử vong sau khi khỏi bệnh do suy hô hấp vì tổn thương phổi nặng không thể can thiệp. 

Nhiều bệnh nhân sau khi khỏi bệnh Covid-19 đến khám bệnh thường có triệu chứng bị suy hô hấp và tổn thương phổi, xơ phổi kéo dài. Bên cạnh đó, nhiều bệnh nhân bị xơ phổi lan tỏa hai bên gây tổn thương chức năng hô hấp, tăng tình trạng đông máu và phản ứng viêm sau Covid-19... Ở mức độ nhẹ hơn là các triệu chứng mệt mỏi, khó thở, hụt hơi, thể lực giảm nhiều, mất tập trung, rối loạn giấc ngủ, một số người bị rối loạn tiêu hóa... Theo các chuyên gia y tế nếu không được khám và điều trị kịp thời thì bệnh có thể tiến triển nặng hơn, gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. 

Ngoài ra, các tổn thương, sang chấn tâm sinh lý xảy ra đối với những người từng mắc Covid-19 cũng diễn ra khá phổ biến và nghiêm trọng. Các chuyên gia cảnh báo không nên xem nhẹ vấn đề này, bởi nhiều người vì bị tổn thương tâm lý làm phát sinh các bệnh mãn tính nguy hiểm khác gây tổn hại, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe, tính mạng của người đã từng bị Covid-19.

Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hiện nay không chỉ là tiếp tục ứng phó linh hoạt, phòng chống hiệu quả dịch bệnh hay sớm kết thúc dịch bệnh mà còn là giải quyết, xử lý vấn đề hậu Covid-19 đối với những người từng nhiễm bệnh. Bởi những hậu quả mà hội chứng hậu Covid-19 thường kéo dài, tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe người bệnh, nhất là khi số lượng người mắc bệnh ở nước không ngừng tăng lên, đến một lúc nào đó có thể sẽ chiếm số đông dân cư. 

Các cơ quan chức năng cần sớm có phương án, kịch bản và có sự chuẩn bị thật sự kỹ lưỡng, chu đáo để ứng phó, điều trị, xử lý các vấn đề liên quan đến hậu Covid-19. Theo đó, song song với việc phòng chống dịch cần chủ động bố trí phương tiện, trang thiết bị và đội ngũ y bác sĩ sẵn sàng cho việc khám, chữa bệnh cho những người đã từng mắc Covid-19 một cách hợp lý, hiệu quả. Có như vậy, mới đảm bảo việc kết thúc công cuộc phòng chống dịch đảm bảo thành công mỹ mãn./.

Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp

5. 

 

Admin