/ Chưa được phân loại
/ TRỰC THỨ 4 THỨ 7

TRỰC THỨ 4 THỨ 7

09/05/2022 03:15 |

(LSVN) -

CHIỀU THỨ 3

 

Luật sư kiến nghị điều tra tội 'Giết người' đối với cha bé gái 08 tuổi bị bạo hành đến tử vong

1. Phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng: Khó khả thi!

(LSVN) - Việc phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng di động là cần thiết để nâng cao nhận thức của người dân về các vi phạm trong phòng, chống tác hại của thuốc lá. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý các hành vi vi phạm hút thuốc lá nơi công cộng hiện nay chưa phát huy hiệu quả.

Ảnh minh họa.

Ngày 06/5 tại Hà Nội, Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) tổ chức Hội thảo triển khai dự án “Tăng cường thực thi Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá thông qua thí điểm mô hình huy động sự tham gia của cộng đồng ở cấp quận và nhân rộng trên toàn quốc”. Với mong muốn góp phần thực hiện hiệu quả hơn nữa các quy định về môi trường không khói thuốc, Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá xây dựng ứng dụng phần mềm VN0khoithuoc trên điện thoại di động, nhắm phát huy vai trò của người dân và tận dụng sức mạnh cộng đồng để phát hiện các trường hợp vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc. Phần mềm được triển khai thí điểm tại 2 quận Hoàn Kiếm và Tây Hồ (Hà Nội) trong năm 2022.

Mặc dù, mới là áp dụng thí điểm nhưng dư luận lo ngại về tính khả thi của việc xử lý hành vi vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc qua ứng dụng phần mềm VN0khoithuoc trên điện thoại di động (gọi tắt là qua ứng dụng) vì những lý do sau:

Thứ nhất, hiện nay tình trạng hút thuốc lá tại nơi công cộng nơi có quy định cấm hút thuốc lá như cơ quan, bệnh viện, trường học,…xảy ra phổ biến nhưng việc xử lý các hành vi vi phạm này là rất hạn chế. Nhiều người vẫn vô tư hút thuốc lá tại các địa điểm có quy định cấm mà không sợ bị xử lý. Việc kiểm tra, nhắc nhở và xử lý của các cơ quan chức năng đối với người vi phạm chưa được thường xuyên, kịp thời. Chính vì vậy, việc triển khai ứng dụng để xử lý hành vi vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc sẽ càng khó khăn hơn.

Thứ hai, hành vi hút thuốc lá tại nơi công cộng xảy ra nhanh chóng, đối tượng vi phạm chủ yếu là người vãn lai. Sau khi hút thuốc xong, người vi phạm sẽ di chuyển đi nơi khác nên không thể có các thông tin như tên, địa chỉ người vi phạm; đồng thời, hành vi vi phạm này cần phải bắt quả tang, lập biên bản tại chỗ và xử lý mới đảm bảo tính khả thi. Do đó, việc người dân quay video hoặc chụp ảnh các hành vi vi phạm và gửi về cơ quan chức năng sẽ rất khó xử lý do thiếu thông tin của đối tượng vi phạm.

Thứ ba, về quy trình xử lý, thông tin phản ánh của người dân sẽ được tiếp nhận và xử lý bởi Ủy ban nhân dân cấp quận và chuyển xuống cấp xã, phường nơi có cơ sở vi phạm. Cơ quan chức năng tiếp nhận, xử lý, đồng thời chuyển lại kết quả để người dân theo dõi, giám sát quá trình xử lý. Quy trình này phải tốn rất nhiều thời gian, nguồn nhân lực và phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc tiếp nhận và xử lý thông tin. Mặt khác, một số thông tin phản ánh của người dân không có nghĩa là đã đầy đủ, chính xác, rõ ràng mà phải thông qua việc kiểm tra, xác minh, nhiều trường hợp việc xác minh, kiểm tra sẽ không có kết quả nên không thể xử lý hành vi vi phạm. Việc này có thể làm cho người dân đã phản ánh thông tin sẽ nản lòng và không tiếp tục phản ánh nữa.

Thiết nghĩ, việc phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng di động là cần thiết để nâng cao nhận thức của người dân về các vi phạm trong phòng, chống tác hại của thuốc lá. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý các hành vi vi phạm hút thuốc lá nơi công cộng hiện nay chưa phát huy hiệu quả. Việc phản ánh của người dân về hành vi hút thuốc lá tại nơi công cộng qua ứng ựng chỉ có thể giúp chính quyền cơ sở và cơ quan, đơn vị, quản lý các địa điểm công cộng nơi cấm hút thuốc lá tăng cường các biện pháp quản lý như kiểm tra, nhắc nhở và xử lý hành vi vi phạm, chứ không thể giúp lực lượng chức năng kiểm tra, xử lý các hành vi hút thuốc lá nơi công cộng đã xảy ra và được người dân quay video hoặc chụp ảnh cung cấp.

ĐỖ VĂN NHÂN

 

Các quy định người đi thuê nhà cần biết

2. 

 

SÁNG THỨ 5

1. Vừa đi làm tại khu công nghiệp, có được Nhà nước hỗ trợ tiền thuê nhà trọ?

(LSVN) - Tôi vừa mới vào làm việc tại doanh nghiệp từ đầu tháng 4/2022 tại khu công nghiệp ở Bình Dương. Vậy tôi có được hỗ trợ tiền thuê nhà trọ? Nếu được thì thủ tục thực hiện như thế nào?

Theo Quyết định 08/2022/QĐ-TTg có hiệu lực từ ngày 28/3/2022, người lao động đáp ứng đủ điều kiện sẽ được hỗ trợ tiền thuê nhà. Theo đó có hai nhóm đối tượng lao động được nhận hỗ trợ gồm: Hỗ trợ người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp và Hỗ trợ người lao động quay trở lại thị trường lao động.

Do bạn làm việc từ tháng 4/2022 nên bạn thuộc nhóm hỗ trợ người lao động quay trở lại thị trường lao động. Hồ sơ, thủ tục nhận hỗ trợ được hướng dẫn như sau:

Đối tượng: Người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tại khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc khu vực kinh tế trọng điểm.

Điều kiện hỗ trợ: Gồm 3 điều kiện:

- Ở thuê, ở trọ trong khoảng thời gian từ ngày 1/4/2022 đến ngày 30/6/2022.

- Có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên được giao kết và thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 1/4/2022 đến ngày 30/6/2022, trừ hợp đồng lao động giao kết tiếp nối của hợp đồng lao động đã giao kết và thực hiện trước đó.

- Đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (có tên trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của cơ quan bảo hiểm xã hội) tại tháng liền kề trước thời điểm người sử dụng lao động lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.

Trường hợp người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, người lao động mới tuyển dụng và có giao kết hợp đồng lao động nhưng chưa có tên trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của cơ quan bảo hiểm xã hội thì phải có tên trong danh sách trả lương của người sử dụng lao động của tháng liền kề trước thời điểm người sử dụng lao động lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.

Mức hỗ trợ: 1 triệu đồng/tháng, tối đa 3 tháng. Phương thức chi trả hàng tháng.

Hồ sơ đề nghị: Danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà có xác nhận của cơ quan bảo hiểm xã hội theo mẫu. Trường hợp trong danh sách có người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì hồ sơ đề nghị cần có thêm bản sao danh sách trả lương của tháng liền kề trước thời điểm doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.

PHƯƠNG HOA

Hỗ trợ vay vốn mua thiết bị học trực tuyến 10 triệu đồng/học sinh

2. Căn cứ điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Nghị định số 29/2022/NĐ-CP Chính phủ vừa ban hành quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19.

Nghị định này quy định về điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19; kinh phí chi thường xuyên của cơ sở thu dung, điều trị Covid-19 công lập và hoàn trả chi phí phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người bệnh Covid-19; một số cơ chế đặc thù liên quan đến thuốc, nguyên liệu làm thuốc có chỉ định sử dụng phòng, điều trị Covid-19; chế độ chính sách đối với người được điều động, huy động tham gia phòng, chống dịch Covid-19 bị mắc Covid-19; người phải cách ly y tế sau thời gian làm việc tại cơ sở thu dung, điều trị Covid-19.

Trong đó, Điều 2 Nghị định quy định rõ về các căn cứ điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19. Cụ thể gồm:

- Đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Giám đốc Sở Y tế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu hỗ trợ nhân lực tham gia phòng, chống dịch Covid-19 theo mẫu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này;

- Đề nghị của Thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở thu dung, điều trị Covid-19 và cơ sở y tế dự phòng có nhu cầu hỗ trợ nhân lực tham gia phòng, chống dịch Covid-19;

- Điều động của Bộ trưởng Bộ Y tế bổ sung nhân lực hỗ trợ đối với các địa phương, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở y tế dự phòng để tăng cường lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19;

- Điều động của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Công an đối với cán bộ, chiến sĩ thuộc phạm vi quản lý bổ sung nhân lực hỗ trợ đối với các địa phương, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở y tế dự phòng để tăng cường lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19.

Thẩm quyền điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19 (sau đây gọi chung là điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19):

- Bộ trưởng Bộ Y tế điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trong phạm vi toàn quốc, trừ lực lượng do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý;

- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trong phạm vi quản lý;

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ủy quyền điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn quản lý;

- Thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở thu dung, điều trị Covid-19, cơ sở y tế dự phòng, cơ sở đào tạo khối ngành sức khỏe điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 thuộc phạm vi quản lý.

NGUYẾN DŨNG

Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng

3. Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp

(LSVN) –Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư 07/2022/TT-BCT hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực. Trong đó quy định rõ hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp.

Cụ thể, về nguyên tắc áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp Thông tư quy định rõ tại cùng một thời điểm, không áp dụng đồng thời biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp và biện pháp tự vệ theo quy định tại Điều 91 Luật Quản lý ngoại thương đối với cùng một hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định RCEP.

Biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp không được áp dụng ngoài giai đoạn chuyển tiếp.

Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp

Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp (trong Chương này gọi là Hồ sơ yêu cầu) gồm Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp và các giấy tờ, tài liệu có liên quan theo quy định tại Điều 47 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.

Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP phải đáp ứng các nội dung cụ thể sau đây:

- Tên, địa chỉ và thông tin cần thiết của tổ chức, cá nhân đại diện ngành sản xuất trong nước;

- Thông tin, số liệu, chứng cứ để xác định đại diện ngành sản xuất trong nước, bao gồm danh sách các tổ chức, cá nhân trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp; khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp mà các tổ chức, cá nhân nêu trên sản xuất;

- Tên, địa chỉ của các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa tương tự ủng hộ hoặc phản đối vụ việc;

- Thông tin mô tả về hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định RCEP bị yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp, bao gồm tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; thành phần; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam; mã hàng và mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện Hiệp định RCEP;

- Thông tin mô tả về hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước bao gồm tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam;

- Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá hàng hóa nhập khẩu quy định tại điểm d khoản này trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ yêu cầu và đã bao gồm ít nhất 06 tháng sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực. Trị giá hải quan hàng hóa nhập khẩu được thực hiện theo quy định tại Hiệp định thực thi Điều VII Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994);

- Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước quy định tại điểm đ khoản này trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ yêu cầu và đã bao gồm ít nhất 06 tháng sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực. Trong trường hợp ngành sản xuất trong nước hoạt động ít hơn 03 năm, dữ liệu thu thập là toàn bộ thời gian hoạt động của ngành sản xuất trong nước tính đến thời điểm nộp Hồ sơ yêu cầu;

- Thông tin, số liệu, chứng cứ về thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;

- Thông tin, số liệu, chứng cứ về mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hóa quy định tại điểm d khoản này và thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;

- Yêu cầu cụ thể về việc áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp, thời hạn áp dụng và mức độ áp dụng.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09/5/2022.

PHƯƠNG HOA

Điều kiện vay vốn với trường mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng Covid-19

4. 

Bàn về tội ‘Vi phạm chế độ một vợ, một chồng’ quy định tại Điều 182 BLHS năm 2015

(LSVN) - Điều 182 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định về tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng", đây là quy định có ý nghĩa rất quan trọng, bảo đảm tốt nguyên tắc cơ bản: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng” được pháp luật thừa nhận và bảo vệ; phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, nhằm bảo vệ và phát huy hiệu quả của hôn nhân và gia đình Việt Nam bền vững, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu và áp dụng pháp luật trên thực tiễn, tác giả nhận thấy còn tồn tại một số vướng mắc và kiến nghị về vấn đề này.

Ảnh minh họa.

So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã có nhiều quy định tiến bộ hơn, đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 147 BLHS năm 1999 thành các hậu quả như “làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn”, “làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát”, cụ thể:

Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Tội phạm được cấu thành khi thỏa mãn hai điều kiện sau:

Một là, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác (người đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc đang độc thân); hoặc chủ thể đang trong tình trạng độc thân nhưng biết rõ và cố ý thực hiện hành vi kết hôn hoặc chung sống với người đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Hai là, hành vi nêu trên đã được cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính; đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó hoặc đã có hậu quả nghiêm trọng xảy ra (làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát).

Vướng mắc, bất cập 

Qua nghiên cứu các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật tác giả nhận thấy còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập trong quy định của Điều luật, cụ thể:

Một là, về mặt kỹ thuật lập pháp ở phần quy định về hành vi của điều luật sử dụng thuật ngữ “kết hôn” là chưa chính xác, bởi, khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.

Như vậy, để xác lập một quan hệ hôn nhân phải tuân thủ các điều kiện về kết hôn và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, một chủ thể đang có vợ, có chồng (có nghĩa đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp) thì không thể kết hôn với người khác. Nếu không tuân thủ điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn sẽ dẫn đến hậu quả “kết hôn trái pháp luật”. Bên cạnh đó, tùy theo tính chất, mức độ hành vi của cơ quan có thẩm quyền công nhận và xác lập quan hệ vợ chồng nói trên sẽ bị xử lý về tội “Đăng ký hộ tịch trái pháp luật” quy định tại Điều 336 BLHS năm 2015.

Hai là, một số hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội tương xứng hoặc cao hơn như kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng được quy định cụ thể tại điểm d khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã lại không được quy định trong BLHS năm 2015. Nếu một trong những hành vi như đã nêu trên xảy ra trên thực tế thì chỉ dừng lại ở mức độ xử lý vi phạm hành chính chứ chưa thể xử lý hình sự, điều này sẽ dẫn đến việc bỏ lọt một số tội phạm. 

Ba là, như đã phân tích ở phần trên, tội phạm hoàn thành khi thỏa mãn hai điều kiện, nhưng trên thực tế chủ thể tội phạm thường dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để lừa dối, che dấu hành vi của mình, dẫn đến rất khó khăn trong việc chứng minh để xử phạt vi phạm hành chính, làm tiền đề để xử lý trách nhiệm hình sự.

Ví dụ như: Nguyễn Văn A đã có vợ, con tại tỉnh D, sau đó A vào thành phố H làm việc, A thuê nhà trọ và sống chung như vợ chồng với B trong thời gian dài. Hành vi này đã được vợ A biết và đề nghị cơ quan có thẩm quyền can thiệp. Tuy nhiên, A chỉ khai nhận mối quan hệ với B chỉ là bạn cùng công ty, thuê trọ ở ghép để tiết kiệm chi tiêu, những người ở cùng dãy trọ với A cũng không biết mối quan hệ giữa A và B như thế nào. Từ đó dẫn đến rất khó cho cơ quan có thẩm quyền chứng minh hành vi vi phạm để xử lý vi phạm hành chính và làm căn cứ xử lý hình sự đối với hành vi của A.

Đề xuất, kiến nghị

Trên cơ sở một số vướng mắc, bất cập, tác giả đề xuất, kiến nghị như sau:

Một là, thời gian tới, cần đề xuất sửa đổi điều luật theo hướng bổ sung cụm từ “trái pháp luật” vào sau cụm từ “kết hôn” và bổ sung hành vi “kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng” vào phần quy định hành vi của điều luật. Cụ thể:

"Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ; kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

...”

Hai là, cần thiết đề xuất ban hành các quy định về xử phạt hành chính cụ thể, rõ ràng hơn trên lĩnh vực này, nhằm dễ dàng hơn trong công tác áp dụng pháp luật để xử lý vi phạm hành chính trên thực tiễn./.

VÕ MINH TUẤN 

Thư ký Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5

 

Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng

5. 

 Sở hữu biển số xe đấu giá 'suốt đời' không trái luật!

(LSVN) - Liên quan đến việc Bộ Công an đang lấy ý kiến của người dân với dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá được đông đảo quần chúng nhân dân quan tâm, đồng tình ủng hộ. Vì vậy, khi dự thảo nghị quyết được công bố thu hút rất nhiều ý kiến tham gia đóng góp nhằm sớm hoàn thiện, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và đi vào thực tế cuộc sống.

Ảnh minh họa.

Điều này đáp ứng nhu cầu, thị hiếu khá lớn của một số bộ phận người dân, tổ chức đối với biển số xe đẹp, ưa thích. Đồng thời, khi triển khai sẽ mang lại một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, khi nhiều biển số đẹp được 'sang tay' lên đến hàng tỷ đồng.

Tuy nhiên, vấn đề được dư luận đặc biệt quan tâm và tranh luận khá gay gắt là biển số xe đấu giá có được xác định là "tài sản" hay không. Từ đó, làm cơ sở, căn cứ xác lập quyền của chủ sở biển số xe trong quá trình quản lý, sử dụng sau này. Đặc biệt là có được sở hữu suốt đời hoặc được phép mua bán, tặng cho, thừa kế... đối với biển số xe được thông qua đấu giá hay không? Có nhiều ý kiến khác nhau.

Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng việc đấu giá biển số xe phải thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản, cụ thể là trình tự, thủ tục đấu giá của Luật Đấu giá tài sản và các luật chuyên ngành liên quan. Khi đó, đương nhiên biển số xe sẽ được coi là tài sản, tương tự như đấu giá quyền sử dụng đất đai. Mặc dù, đất đai được coi "tài sản đặc biệt", thuộc sở hữu toàn dân… nhưng vẫn được tổ chức đấu giá, quản lý, sử dụng bình thường.  

Tất nhiên, cần bổ sung quy định biển số xe thông qua đấu giá là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu để việc triển khai thuận tiện, đúng pháp luật. Do đó, khi mua bán, tặng cho, thừa kế hoặc xe cũ đã hư hỏng muốn giữ lại biển số xe phải đăng ký với cơ quan chức năng để quản lý, theo dõi.

Trên thực tế việc thực hiện quyền của người sử dụng đất thông qua đấu giá như mua bán, thừa kế, tặng cho không có sự vướng mắc, bất cập gì. Do đó, biển số xe được coi là "tài sản đặc biệt" là hoàn toàn hợp lý, không có gì trái luật. Thậm chí, biển số xe qua đấu giá cũng có thể cho phép thế chấp tại các tổ chức tín dụng đều khả thi, phù hợp.

Vì vậy, cơ quan chức năng sớm triển khai việc đấu giá biển số xe bởi những lợi ích thiết thực mà nói mang lại. Điều này còn hạn chế tình trạng do nhu cầu về biển số xe đẹp mà một số người phải bỏ ra số tiền lớn để có được, trong khi ngân sách nhà nước thất thu khá lớn. Trong khi chỉ một số ít người được hưởng lợi từ việc mua bán, sang tay biển số xe đẹp, dẫn đến tiêu cực, lộn xộn trong việc quản lý biển số xe đẹp./.

Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Suy nghĩ về dạy Sử và học Sử

 

THỨ 7.

1. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa quy định tại Điều 325 BLTTHS

(LSVN) - Bên cạnh việc quy định quyền truy tố của Viện Kiểm sát thì pháp luật hiện hành cũng quy định về việc rút quyết định truy tố. Việc rút quyết định truy tố của Kiểm sát viên có thể diễn tra trước hoặc trong phiên tòa, có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố. Bài viết dưới đây tác giả sẽ giới thiệu về hoạt động xem xét khi kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa.

Ảnh minh họa.

Viện Kiểm sát (VKS) quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Như vậy, có thể hiểu quyết định truy tố chính là bản cáo trạng được Kiểm sát viên đọc trước phiên tòa. Từ đó, thì rút quyết định truy tố chính là hoạt động rút bản cáo trạng. Rút quyết định truy tố có thể là rút toàn bộ quyết định truy tố tức là rút toàn bộ cáo trạng mà VKS đã truy tố người phạm tội hoặc rút một phần quyết định truy tố tức là Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) không xét xử người phạm tội về một tội hoặc về một số tội nào đó hoặc không áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã nêu trong cáo trạng.

Tại Điều 325 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định xem xét về việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa như sau:

“1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án.

2. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, HĐXX yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố đó”.

Tại phiên tòa khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận việc rút truy tố đó. Hoạt động rút một phần quyết định truy tố của Kiểm sát viên không làm thay đổi giới hạn xét xử về cả phạm vi xem xét và phạm vi ra quyết định vụ án, Hội đồng xét xử vẫn có quyền xét xử toàn bộ những bị cáo và hành vi đã bị Viện Kiểm sát truy tố trong cáo trạng và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa khi Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án, trước khi nghị án, thì Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến của họ về việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát là có hay không có căn cứ.

Và tại khoản 4 Điều 326 quy định: “Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp.” 

Thực tiễn việc xem xét rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa và những khó khăn, vướng mắc

Việc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa được thực hiện ở hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ khi Tòa án nhận hồ sơ đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử và giai đoạn 2 từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử tới khi mở phiên tòa.

Giai đoạn 1: Nếu xét thấy có căn cứ rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố thì Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án phải báo cáo cho Viện trưởng VKS xem xét, quyết định. Việc rút quyết định truy tố phải bằng văn bản và nêu rõ lý do. Trường hợp rút toàn bộ quyết định truy tố thì đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án. Sau khi Tòa án xem xét việc Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố là đúng đắn, thì thẩm quyền đình chỉ vụ án thuộc về Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa theo quy định tại Điều 282 BLTTHS.

Những căn cứ để VKS rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án bao gồm: Không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm được đại xá, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, người tội phạm được đại xá, người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng gây thiệt hại không lớn có nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

Giai đoạn 2: Khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trước khi mở phiên tòa nếu VKS rút một phần quyết định truy tố thì HĐXX chỉ xét xử phần không bị rút truy tố; nếu VKS rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX ra quyết định đình chỉ vụ án.

Đối với việc rút toàn bộ quyết định truy tố, thẩm quyền giải quyết có nhiều quan điểm khác nhau:

Quan điểm 1: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 282 BLTTHS, trường hợp VKS rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án nên thẩm quyền thuộc Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa.

Quan điểm 2: Khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thẩm quyền không phải của Thẩm phán mà thuộc về HĐXX, vì vậy Tòa án phải mở phiên tòa và thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm 3: Thẩm quyền thuộc về HĐXX nhưng không cần thiết phải mở phiên tòa mà HĐXX mở phiên họp để giải quyết việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát bằng và trước ngày mở phiên tòa (vì do không phát sinh chức năng xét xử).

Quan điểm cá nhân đồng ý với quan điểm 2, bởi khi đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, VKS rút toàn bộ quyết định truy tố thì mọi quyết định đều thuộc HĐXX nên phải mở phiên tòa, HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định. Nếu có căn cứ, xác định bị cáo không có tội thì HĐXX nghị án, ra bản án tuyên bị cáo không có tội.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 320; Điều 325; khoản 4 Điều 326 BLTTHS khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Nếu KSV rút toàn bộ quyết định truy tố, trước khi nghị án HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến về việc rút đó và giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự tại phần khoản 1 Điều 326 BLTTHS. Khi nghị án, HĐXX cho rằng việc rút quyết định truy tố đúng đắn thì tuyên bị cáo vô tội, nếu việc rút đó không đúng thì ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp. Điểm bất cập ở quy định này là khi VKS rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX vẫn tiếp tục giải quyết những vấn đề của vụ án.

Có quan điểm cho rằng nếu KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì đương nhiên sẽ không có lời luận tội, không có tranh luận giữa các bên thì làm sao HĐXX tiếp tục giải quyết. Vì vậy, khi KSV rút quyết định truy tố phần nào thì HĐXX chỉ được xét xử phần còn lại, nếu rút toàn bộ thì phải tuyên bị cáo vô tội chứ không phải HĐXX lựa chọn việc là tiếp tục xét xử. Như vậy thẩm quyền của Tòa án trong vấn đề rút quyết định truy tố đã mâu thuẫn với chức năng xét xử. Vì giới hạn xét xử và quyền truy tố đặt ra yêu cầu nếu không có buộc tội thì không phát sinh việc xét xử.

BLTTHS quy định việc rút quyết định truy tố của VKS tại Điều 285: “Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 BLHS thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án”. Tuy nhiên, điều luật không quy định rõ việc rút một phần hay là toàn bộ quyết định truy tố nên việc “đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án” là chưa phù hợp.

2. Xem xét việc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa sơ thẩm

Tại Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa sau khi xét hỏi nếu có căn cứ rõ ràng để kết luận về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng điều luật làm thay đổi quyết định truy tố thì KSV có quyền kết luận về khoản nhẹ hơn hoặc nặng hơn (tình tiết định khung tăng nặng) khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hay không? Có quan điểm cho rằng tại phiên tòa sơ thẩm, KSV có quyền kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng điều luật. Vì theo quy định tại Điều 298 BLTTHS thì kết luận và đề nghị của KSV về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng một điều luật là hoàn toàn nằm trong phạm vi “giới hạn của việc xét xử”. Trong quá trình tham gia xét xử và diễn biến tại phiên tòa KSV nhận thấy bị cáo không phạm vào điểm, khoản mà VKS truy tố nhưng phạm vào điểm, khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng một điều luật, nếu KSV đó không được thay đổi mà vẫn bảo vệ theo khoản mà VKS đã truy tố trước đó thì không đúng theo nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” quy định tại Điều 15 BLTTHS. Trong khi đó Tòa án lại có thẩm quyền xét xử theo khoản nặng hơn trong cùng một điều luật khác với khoản mà VKS đã truy tố trước đó.

Trong trường hợp VKS rút quyết định truy tố không có căn cứ HĐXX ra quyết định tạm đình chỉ vụ án thì căn cứ vào quy định nào của BLTTHS, vì Điều 281 BLTTHS không có quy định trường hợp này. Mặc khác luật cũng không quy định về việc kiến nghị của HĐXX được VKS giải quyết như thế nào?

Đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, bổ sung Điều 282 của BLTTHS 2015 quy định về trường hợp Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trước khi mở phiên tòa như sau: “1. Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:

…  b) Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa. Trường hợp Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thẩm quyền thuộc về Hội đồng xét xử”.

Thứ hai, đối với trường hợp rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa: cần bổ sung Điều 285 BLTTHS năm 2015 theo hướng VKS được quyền rút một phần, hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa, như sau: “Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Hình sự thì Viện kiểm sát có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án phần đã rút”.

Thứ ba, bổ sung vào Điều 319 BLTTHS quy định về việc Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn./.

NGUYỄN TẤT TRÌNH

Tòa án Quân sự Khu vực 1 Quân khu 5

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực

2. VKSND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự

(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án số 102/2018/DS-PT, ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố CT giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Thu N. với bị đơn bà Nguyễn Thu T. đã có hiệu lực pháp luật, VKSND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm.

Ảnh minh họa.

1. Nội dung vụ án:

Bà Trần Thị Thu N. là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 372, 373 tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại ấp TT, xã TH, huyện TN (nay là khu vực TT 1, phường TH, quận TN), thành phố CT (Thửa 372,373). Nguồn gốc đất do cụ Nguyễn Thị Z. (mẹ bà N) cho. Khi cụ Z. còn sống có cho bà Nguyễn Thu T. và ông Nguyễn Công D. ở nhờ trên Thửa 372 và bà Phạm Thị L. ở nhờ trên Thửa 373. Hiện nay, ông D., bà T. và bà L. cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang sử dụng một phần thửa đất do bà N. đứng tên và đang lấn chiếm thêm. Bà N. yêu cầu bà T., ông D., bà L. và những người liên quan có trách nhiệm di dời nhà và trả lại đất cho bà sử dụng, đồng thời bà hỗ trợ chi phí di dời cho mỗi hộ từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Bà Phạm Thu T., ông Nguyễn Công D., bà Phạm Thị L. thống nhất với lời trình bày của bà N, đồng ý trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho bà N. với lý do gia đình các ông, bà được mẹ của bà N. là cụ Z. cho ở nhờ trên phần đất hiện nay. Các ông, bà đồng ý trả lại đất nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, ngoài diện tích đất gia đình các ông, bà đang sử dụng thì không có diện tích đất nào khác. Hơn nữa, các ông, bà đã sử dụng diện tích đất tranh chấp từ năm 1979 cho đến nay nên đề nghị bà N tạo điều kiện cho gia đình các ông, bà có nơi ở ổn định.

2. Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án số 67/2017/DS-ST, ngày 17/10/2017, TAND quận TN, thành phố CT (Bản án sơ thẩm), đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Giao phần diện tích 69m2 đất tranh chấp cho bị đơn ông D., người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà H., ông G., ông Y., ông P., bà L. sử dụng và trả lại giá trị đất theo giá thị trường cho nguyên đơn là 58.650.000 đồng.

Giao phần diện tích 97,6 m2 đất tranh chấp cho bị đơn bà T., người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông H., bà U., bà K., ông N. sử dụng và trả lại giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường cho nguyên đơn là 82.960.000 đồng.

Giao phần diện tích 67m2 đất tranh chấp cho bị đơn bà L., người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Q., bà Đ. sử dụng và trả lại giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường cho nguyên đơn là 43.550.000 đồng.

Vị trí, kích thước phần diện tích 69m2, 97,6m2 và 67m2 được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 13-2017 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận TN đo vẽ ngày 24/02/2017.

Các đương sự tự liên hệ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xin đăng ký cấp giấy theo quy định của pháp luật, chi phí phát sinh do đương sự tự chịu.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác.

Ngày 01/11/2017, bà Trần Thị Thu N. kháng cáo Bản án sơ thẩm.

Tại Bản án số 102/2018/DS-PT, ngày 01/8/2018 của TAND thành phố CT (Bản án phúc thẩm), đã quyết định: Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc bị đơn ông Nguyễn Công D. và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Nguyễn Thị H., Nguyễn Công Quốc G., Nguyễn Quốc Y., Nguyễn Quốc P. và Nguyễn Thị Cẩm L. di dời và trả lại phần đất có diện tích 69m2 cho nguyên đơn. Buộc bị đơn Nguyễn Thu T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Võ T H, Lê Thị Ngọc U, Nguyễn Thúy K., Nguyễn Hoàng N. và Nguyễn Thùy D. di dời và trả lại phần diện tích 97,6m2 đất cho nguyên đơn. Buộc bị đơn Phạm Thị L. và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Châu Đình Q. và Châu Kim Đ. di dời và trả lại phần diện tích 67m2 đất cho nguyên đơn.

Các bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền cư trú với thời hạn là 06 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Vị trí, kích thước, đặc điểm phần diện tích nêu trên và các tài sản trên đất tương ứng được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 13-2017 ngày 24/02/2017 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận TN và Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 26/5/2016 của Tòa án nhân dân quận TN.

Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ngày 22/01/2018, các ông, bà: Nguyễn Công D., Nguyễn Thị H., Nguyễn Công Quốc G., Nguyễn Quốc Y., Nguyễn Quốc P., Nguyễn Thị Cẩm L., Nguyễn Thu T., Võ T H., Lê Thị Ngọc U., Nguyễn Thúy K., Nguyễn Hoàng Q. và Nguyễn Thùy D. có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 81/2021/DS-GĐT ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 320/QĐKNGĐT-VKS-DS, ngày 30/11/2020 của Viện trưởng VKSND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về việc hủy Bản án phúc thẩm, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Phần diện tích đất tranh chấp gồm 97,6m2 thuộc thửa 372c, 67m2 thuộc thửa 373A và 69m2 thuộc thửa 372b cùng tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại khu vực TA 3, phường TA, quận TN, thành phố CT đã được UBND huyện TN cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Trần Thị Thu N. Các bên đương sự cùng thống nhất xác định nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của cụ Nguyễn Thị Z., lúc còn sống cụ Z. cho ông Nguyễn Công D., bà Nguyễn Thu T. và bà Phạm Thị L. ở nhờ. Sau đó, bà Z. đã tặng cho quyền sử dụng đất lại cho con là bà Trần Thị Thu N. Quá trình quản lý, sử dụng đất, gia đình ông Nguyễn Công D. đã nhận đất quản lý, sử dụng từ năm 1979, đã xây nhà ở ổn định cho đến nay, việc xây nhà được bà Z. đồng ý. Hiện nay, gia đình ông D. đều đi làm thuê, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, ngoài phần đất cất nhà nêu trên không còn diện tích đất nào khác để di dời nhà ở. Gia đình của bà Phạm Thị L. đã sử dụng đất ổn định từ năm 1992 cho đến nay, hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, việc di dời nhà ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của gia đình bà L. Còn gia đình bà Nguyễn Thu T. đã sử dụng đất ổn định từ năm 1984, đã cất nhà ở kiên cố, việc buộc bà T. tháo dỡ nhà sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của gia đình bà T.

Bản án sơ thẩm đã xem xét đến hoàn cảnh gia đình và nhu cầu sử dụng đất của ông D., bà T., bà L. và quyết định giao diện tích đất tranh chấp cho các ông, bà sử dụng. Đồng thời, buộc ông D., bà T., bà L. phải hoàn trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho bà N. là phù hợp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Bản án phúc thẩm buộc ông D., bà T., bà L. phải trả lại quyền sử dụng đất tranh chấp cho bà N. là không phù hợp với thực tế sử dụng đất, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình ông D., bà T. và bà L.

PV

Hoàn thiện quy định về tội ‘Cưỡng bức lao động’ theo Điều 297 BLHS 2015

3. Bổ sung thu phí giám sát chứng khoán phái sinh từ 01/7/2022

(LSVN) - Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư 25/2022/TT-BTC ngày 28/4/2022 quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán. Trong đó, bổ sung thu phí giám sát chứng khoán phái sinh.

Ảnh minh họa.

Thông tư quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí quản lý và giám sát hoạt động chứng khoán; lệ phí cấp giấy phép, giấy chứng nhận hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán áp dụng tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

Thông tư này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nộp phí, lệ phí; tổ chức thu phí, lệ phí; các tổ chức, cá nhân khác liên quan đến thu, nộp phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán.

Mức thu phí quản lý và giám sát hoạt động chứng khoán; lệ phí cấp giấy phép, giấy chứng nhận hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán được quy định tại Biểu mức thu phí, lệ phí ban hành kèm theo Thông tư này.

Cụ thể, phí giám sát chứng khoán phái sinh đối với Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC): 10% doanh thu giá dịch vụ quản lý vị thế/giá dịch vụ bù trừ và giá dịch vụ quản lý tài sản ký quỹ.

Phí giám sát chứng khoán phái sinh đối với Sở Giao dịch chứng khoán: 10% doanh thu giá dịch vụ giao dịch chứng khoán phái sinh.

Bên cạnh đó, bổ sung thu phí giám sát hoạt động chứng khoán đối với ngân hàng thanh toán như sau:

- Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, chứng quyền có bảo đảm: 0,001% giá trị bù trừ, thanh toán ròng/ngày thanh toán, tối đa 1.000.000 đồng/ngày.

- Đối với trái phiếu doanh nghiệp: 0,0001% giá trị bù trừ, thanh toán ròng/ngày thanh toán, tối đa 100.000 đồng/ngày.

Thông tư 25/2022/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 01/7/2022 và thay thế Thông tư 272/2016/TT-BTC ngày 14/11/2016.

MAI HUỆ

Thông báo rút kinh nghiệm vụ án 'Tranh chấp quyền sử dụng đất'

4. Kê khai, thu, nộp phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung tại Thông tư 25/2022/TT-BTC ngày 28/4/2022 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán.

Theo đó, tại Điều 4 Thông tư quy định rõ về kê khai, thu, nộp phí, lệ phí của người nộp. Cụ thể, phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán thu bằng đồng Việt Nam.

Thu, nộp lệ phí: Người nộp lệ phí phải nộp toàn bộ số tiền lệ phí khi được cấp giấy phép, giấy chứng nhận hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

Thu, nộp phí giám sát hoạt động chứng khoán: Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là Sở GDCK), Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam (sau đây gọi tắt là VSDC), ngân hàng thanh toán nộp phí giám sát cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hàng quý, thời gian nộp chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng đầu tiên của quý tiếp theo.

Thu, nộp phí quản lý công ty đại chúng chưa niêm yết và chưa đăng ký giao dịch một lần khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy xác nhận hoàn tất việc đăng ký công ty đại chúng.

Thu, nộp phí quản lý đối với quỹ mở

Trong vòng 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập quỹ mở, công ty quản lý quỹ phải nộp phí quản lý như sau:

- Trường hợp được cấp giấy chứng nhận từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 30 tháng 06 hàng năm, mức phí phải nộp là 10 triệu đồng/quỹ.

- Trường hợp được cấp giấy chứng nhận từ ngày 01 tháng 7 đến ngày 31 tháng 12 hàng năm, mức phí phải nộp là 5 triệu đồng/quỹ.

Các năm tiếp theo, công ty quản lý quỹ phải nộp phí là 10 triệu đồng/quỹ, thời gian nộp từ ngày 01 tháng 12 đến ngày 31 tháng 12 hàng năm.

Về kê khai, nộp phí, lệ phí của tổ chức thu, định kỳ chậm nhất là ngày thứ hai hàng tuần, tổ chức thu phí phải gửi số tiền phí đã thu được trong tuần trước vào tài khoản phí chờ nộp ngân sách mở tại Kho bạc Nhà nước.

Tổ chức thu phí, lệ phí thực hiện kê khai, nộp phí, lệ phí thu được theo tháng, quyết toán năm theo quy định tại Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế. Tổ chức thu thực hiện nộp 30% số tiền phí thu được và 100% số tiền lệ phí thu được vào ngân sách nhà nước theo chương, tiểu mục của Mục lục ngân sách nhà nước.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2022. Thông tư bãi bỏ Thông tư số 272/2016/TT-BTC ngày 14/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán.

DUY ANH

Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng

5. Chế độ chính sách đối với người được điều động, huy động tham gia phòng, chống dịch Covid-19 bị nhiễm Covid-19

(LSVN) - Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2022/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19. Trong đó quy định rõ về Chế độ chính sách đối với người được điều động, huy động tham gia phòng, chống dịch Covid-19 bị nhiễm Covid-19.

Theo đó, đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 đang hưởng lương từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thu sự nghiệp của cơ sở y tế công lập:

- Được hưởng tiền lương, tiền công, phụ cấp theo lương và các khoản đóng góp theo quy định của pháp luật trong thời gian điều trị do bị nhiễm Covid-19. Trong đó quỹ bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, ngân sách nhà nước chi trả phần còn lại;

- Được hưởng các chế độ phòng, chống dịch Covid-19 nếu tham gia thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 trong thời gian điều trị Covid-19.

Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 không hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng có tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc:

Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 không hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng không tham gia đóng bảo hiểm xã hội được hưởng các chế độ phòng, chống dịch Covid-19 nếu tham gia thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 trong thời gian điều trị Covid-19.

Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 không hưởng lương từ ngân sách nhà nước ngoài các chế độ quy định tại các khoản 2 và 3 Điều này, được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một lần với mức như sau:

- Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 từ 15 ngày liên tục trở lên đến dưới 30 ngày mức 1.855.000 đồng/người;

- Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 từ 30 ngày liên tục trở lên mức 3.710.000 đồng/người.

Sở Y tế có trách nhiệm tổng hợp nhu cầu chi hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước cho các đối tượng quy định tại khoản 4 Điều này gửi Sở Tài chính tổng hợp và trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét, bổ sung dự toán để chi trả theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

PHƯƠNG HOA

Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm về phát hành, bán trái phiếu trái quy định

6. Đề xuất quy trình xử lý tài sản, tài chính khi giải thể đơn vị sự nghiệp công lập

(LSVN) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến rộng rãi đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn một số nội dung về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập; xử lý tài sản, tài chính khi tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Đáng chú ý, Dự thảo Thông tư đưa ra quy định việc xử lý về tài sản và tài chính khi tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập dưới hình thức chia, tách, sáp nhập, hợp nhất.

Ảnh minh họa.

Theo đó, đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện kiểm kê, phân loại tài sản công và báo cáo cơ quan quản lý cấp trên xem xét, quyết định phương án xử lý tài sản theo một hoặc các phương thức quy định từ Điều 48 đến Điều 53 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản công; Việc quản lý, sử dụng số tiền thu được từ xử lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện theo quy định tại Điều 55 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP.

Về xử lý về tài chính, đơn vị sự nghiệp công lập (cũ) bị chia, tách, sáp nhập, hợp nhất có trách nhiệm: Lập báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán theo quy định của chế độ kế toán đơn vị sự nghiệp công lập; Báo cáo cơ quan quản lý cấp trên để báo cáo cơ quan tài chính cùng cấp thực hiện quyết toán hoặc kiểm tra, xác định các khoản kinh phí được cấp; Có văn bản đề nghị cơ quan thuế thực hiện quyết toán hoặc kiểm tra, xác định các khoản phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định; Kiểm kê số dư bằng bằng tiền của Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ khen thưởng, phúc lợi, Quỹ bổ sung thu nhập, Quỹ đặc thù, Quỹ khác và số dư nguồn cải cách tiền lương.

Cũng theo Dự thảo, đơn vị sự nghiệp công lập (cũ) bị chia, tách, sáp nhập, hợp nhất phải bàn giao đầy dủ, nguyên trạng tài sản, công nợ, quyền sử dụng đất, các hợp đồng kinh tế, các quyền, nghĩa vụ khác cho đơn vị sự nghiệp công lập (mới) kèm theo hồ sơ, chứng từ có liên quan. Đơn vị sự nghiệp công lập (mới) hình thành sau chia, tách, sáp nhập, hợp nhất có trách nhiệm tiếp nhận, kế thừa toàn bộ tài sản (kể cả tài sản hư hỏng, kém, mất phẩm chất, không cần dùng, chờ thanh lý), các khoản công nợ phải thu, phải trả và các nghĩa vụ khác của đơn vị bị chia, tách, sáp nhập, hợp nhất. Sau khi nhận bàn giao, đơn vị sự nghiệp công (mới) có trách nhiệm tiếp tục xử lý các tồn tại về tài chính theo các quy định hiện hành.

Đối với vấn đề xử lý tài về chính của đơn vị sự nghiệp công lập khi giải thể, theo Dự thảo, đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện như quy trình xử lý tài chính khi tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập. Riêng đối với số dư bằng bằng tiền của Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ khen thưởng, phúc lợi, Quỹ bổ sung thu nhập, Quỹ đặc thù, Quỹ khác và số dư nguồn cải cách tiền lương, đơn vị thực hiện như sau:

Số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi được sử dụng để bù đắp các khoản đã chi vượt chế độ cho người lao động (nếu có), chi cho người lao động theo chế độ quy định đối với đơn vị sự nghiệp công lập, phần còn lại chia cho người lao động đang làm việc theo số tháng làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi. Việc chi số dư bằng tiền của các Quỹ cho người lao động được hoàn thành trước thời điểm giải thể đơn vị sự nghiệp công lập;

Số dư bằng tiền của Quỹ bổ sung thu nhập/Quỹ dự phòng ổn định thu nhập được chia cho người lao động đang làm việc theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị sự nghiệp công tối đa không quá 6 tháng lương thực hiện, phần còn lại (nếu có) được nộp vào ngân sách nhà nước; Số dư bằng tiền của Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, số dư nguồn cải cách tiền lương được nộp vào ngân sách nhà nước; Số dư các Quỹ đặc thù và Quỹ khác theo quy định của pháp luật; Các khoản công nợ (nợ thuế, nợ phải trả khác…) thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 47 và khoản 1 Điều 48 Luật Kế toán năm 2015 và các văn bản hướng dẫn có liên quan.

TIẾN HƯNG

Giao chỉ tiêu thực hiện bao phủ bảo hiểm y tế cho các tỉnh, thành phố

7. Thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh là hết sức cần thiết!

(LSVN) -

Hiện nay, Đề án thành lập ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ được Hội nghị Trung ương 5 sắp tới xem xét, quyết định. Điều này cho thấy, việc cần thiết phải thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (gọi tắt là Ban Chỉ đạo cấp tỉnh) để tập trung chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng; phòng, chống tiêu cực, trọng tâm là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị trong phạm vi địa phương. Đồng thời, Ban Chỉ đạo cấp tỉnh phải trực tiếp chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng hoặc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm ở địa phương.      

Nếu việc thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, chắc chắn công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ trở nên đồng bộ, thống nhất và hiệu quả từ Trung ương xuống địa phương. Ban Chỉ đạo cấp tỉnh được xem là "cánh tay" nối dài của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Ban Chỉ đạo Trung ương. Hiện nay, chỉ có 05 địa phương trên cả nước đã thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, các địa phương còn lại chưa thành lập nên tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương chưa được thực hiện đồng bộ, hiệu quả, chưa có cơ chế để theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các vụ án, vụ việc tham nhũng ở địa phương.

Nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh chủ yếu là để ngăn chặn, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực và ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở địa phương. Do đó, người đứng đầu và thành viên Ban Chỉ đạo phải là những người thật sự ưu tú, trong sáng và không tham nhũng, kể cả người thân của họ cũng không được tham những. Ban Chỉ đạo cấp tỉnh phải được trao cho những quyền hạn nhất định trong việc chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng hoặc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm ở địa phương; đồng thời,có thẩm quyền chỉ đạo xử lý nghiêm đối cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có biểu hiện suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Các văn bản chỉ đạo của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh phải đảm bảo cơ chế thi hành nghiêm túc, triệt để.

Ban Chỉ đạo cấp tỉnh phải làm việc một cách khách quan, công tâm, vô tư và không được phép "nhúng chàm" đến bất cứ hành vi nào về tham nhũng, tiêu cực. Khi thành viên Ban Chỉ đạo cấp tỉnh có dấu hiệu dính líu đến vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực thì phải đưa ra khỏi Ban Chỉ đạo; đồng thời, phải kiểm tra, xử lý ngay đối với hành vi tham nhũng, tiêu cực đó và công khai để người dân được biết.

Ban Chỉ đạo cấp tỉnh nên thành lập theo hướng cơ cấu như thành phần của Ban Chỉ đạo của Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy phải là Trưởng ban chỉ đạo, thành viên Ban Chỉ đạo là người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án; các cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh ủy như Ban Tuyên giáo, Ban Nội chính và các cơ quan, tổ chức có liên quan như Ủy ban MTTQVN tỉnh, Thanh tra tỉnh, Sở Tư pháp,…Giúp việc cho Ban Chỉ đạo cấp tỉnh là Thường trực Ban Chỉ đạo và có thể thành lập Văn phòng Ban Chỉ đạo nằm trong Ban Nội chính Tỉnh ủy. Việc thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh và bộ máy giúp việc của Ban Chỉ đạo theo hướng bố trí cán bộ kiêm nhiệm, không làm tăng thêm biên chế nhưng vẫn đảm bảo tính độc lập, khách quan và hoạt động hiệu quả.Bên cạnh đó, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh là hết sức cần thiết, để xác định vị trí của Ban Chỉ đạo, làm rõ các mối quan hệ của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh đối với Ban Chỉ đạo Trung ương và hệ thống chính trị ở địa phương.

Thiết nghĩ, trong bối cảnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước ta tăng cường và đẩy mạnh, việc thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh là hết sức cần thiết, đảm bảo công tác phòng, chống tham những, tiêu cực được triển khai sâu rộng, thông suốt và hiệu quả,không chỉ ở tập trung chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực ở Trung ương mà còn ở địa phương, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối vớicông tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta hiện nay./.

ĐỖ VĂN NHÂN

Trả tiền cho người cung cấp thông tin vi phạm giao thông là khả thi, hợp lý!

Admin