TRỰC THỨ 5
CHIỀU
Bộ Giao thông Vận tải yêu cầu chấn chỉnh tình trạng hoãn, hủy, chậm chuyến bay
(LSVN) - Trước tình trạng hoãn, hủy, chậm chuyến bay của các hãng hàng không nội địa có xu hướng tăng trong thời gian qua, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Lê Anh Tuấn đã có văn bản gửi Cục Hàng không Việt Nam yêu cầu chấn chỉnh tình trạng này.
Ảnh minh họa.
Văn bản nêu rõ, hoạt động vận tải hàng không đang hồi phục nhanh chóng sau khi đại dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát. Từ đầu năm 2022 đến nay, nhu cầu đi lại của người dân nói chung tăng nhanh, giúp sản lượng hành khách và hàng hóa qua các cảng hàng không tăng trưởng nhanh.
Đối với các chuyến bay khai thác nội địa, lượng hành khách và sản lượng hàng hóa trong 6 tháng đầu năm 2022 tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ năm 2021. Lượng hành khách thông qua các cảng hàng không đạt 40,7 triệu khách, tăng 56,8% so với cùng kỳ 2021. Trong đó, khách quốc tế đạt 1,8 triệu khách, tăng 904,6%; khách nội địa đạt 38,9 triệu khách, tăng 52,6%.
Các hãng hàng không nội địa đã vận chuyển 20,1 triệu khách, tăng 56,1% so với cùng kỳ 2021 (số lượng khách quốc tế đạt 667.000 khách, tăng 1.033%, khách nội địa đạt 19,5 triệu khách, tăng 51,8%), đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành hàng không.
Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế (IATA) đánh giá Việt Nam đứng đầu trong danh sách 25 quốc gia có thị trường hàng không nội địa phục hồi nhanh nhất thế giới, vượt qua Mexico, Brazil, Nga, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ. Các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia đứng thứ 8, Malaysia đứng thứ 9, Thái Lan đứng thứ 24.
Tuy nhiên, bên cạnh việc dần hồi phục hoạt động vận tải hàng không nội địa, tình trạng nhiều chuyến bay bị chậm, hủy chuyến bắt đầu gia tăng, gây bức xúc cho hành khách, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành Hàng không.
Theo rà soát của Cục Hàng không Việt Nam, riêng trong tháng 6/2022, có hơn 5.600 chuyến bay của các hãng hàng không nội địa bị chậm chuyến, chiếm tỷ lệ 18,2% số chuyến bay, tăng 9% so với tháng 5/2022.
Để khắc phục tình trạng nói trên, đặc biệt trong dịp cao điểm hè, Bộ Giao thông Vận tải đề nghị Cục Hàng không Việt Nam tăng cường kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các hãng hàng không để kịp thời chấn chỉnh; xác định nguyên nhân chậm, hủy chuyến của các hãng hàng không để đưa ra giải pháp xử lý.
Cục Hàng không Việt Nam cũng có trách nhiệm chỉ đạo các hãng hàng không tuân thủ các quy định về an ninh hàng không, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, điều lệ vận chuyển liên quan đến nghĩa vụ của người vận chuyển trong điều kiện chậm, hủy chuyến.
DUY ANH
Đối tượng nào được tăng lương tối thiểu vùng từ ngày 01/7/2022?
1. Người sử dụng lao động không tăng lương tối thiểu vùng theo Nghị định 38/2022/NĐ-CP sẽ bị xử lý như thế nào?
(LSVN) - Theo Nghị định số 38/2022/NĐ-CP, từ ngày 01/7/2022, mức lương tối thiểu vùng được tăng thêm 6% so với mức lương tối thiểu hiện hành. Vậy, nếu người sử dụng lao động không tăng lương tối thiểu vùng theo Nghị định 38/2022/NĐ-CP sẽ bị xử lý như thế nào?
Khoản 3 Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định trường hợp người sử dụng lao động trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định thì bị xử phạt như sau:
- Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;
- Từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;
- Từ 50.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người lao động trở lên.
Theo quy định nêu trên, trong trường hợp người sử dụng lao động không trả lương cho người lao động theo mức lương tối thiểu vùng mà Chính phủ quy định từ ngày 01/7/2022 thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính tương đương với mức độ vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 17 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả buộc phải trả đủ tiền lương cộng với một khoản tiền lãi của số tiền trả thiếu cho người lao động. Mức lãi suất được tính theo lãi tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt.
DUY ANH
Đối tượng nào được tăng lương tối thiểu vùng từ ngày 01/7/2022?
2. Các trường hợp phạm nhân không được lao động ngoài trại giam
(LSVN) - Vừa qua, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 54/2022/QH15 về thí điểm mô hình tổ chức lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân ngoài trại giam.
Nghị quyết này quy định việc thí điểm mô hình tổ chức hoạt động lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân ngoài trại giam thuộc Bộ Công an, trong đó trại giam được áp dụng thí điểm hợp tác với tổ chức trong nước để tổ chức hoạt động lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân ngoài trại giam.
Trong đó, Nghị quyết quy định rõ, không đưa ra khu lao động, hướng nghiệp, dạy nghề ngoài trại giam những phạm nhân thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm nhân phạm một trong các tội về xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
- Phạm nhân đã bị kết án từ 02 lần trở lên;
- Phạm nhân tái phạm nguy hiểm;
- Phạm nhân là người tổ chức trong vụ án đồng phạm về tội đặc biệt nghiêm trọng;
- Phạm nhân có thời gian chấp hành án phạt tù còn lại trên 07 năm;
- Phạm nhân là người nước ngoài;
- Phạm nhân đang mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm;
- Phạm nhân dưới 18 tuổi;
- Phạm nhân từ đủ 60 tuổi trở lên;
- Phạm nhân đang xếp loại chấp hành án phạt tù loại “Kém”;
- Phạm nhân đã có hành vi trốn khỏi cơ sở giam giữ hoặc trốn khỏi cơ sở giáo dục bắt buộc;
- Phạm nhân thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 32 của Luật Thi hành án hình sự.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2022 và được thực hiện trong 05 năm.
THU HƯƠNG
Khẩn trương thu phí không dừng với các trạm BOT ở TP. HCM
3. Điều kiện áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu ưu đãi theo Hiệp định EVFTA
(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất đáng chú ý tại dự thảo Nghị định Biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh châu Âu giai đoạn 2022 – 2027 (Hiệp định EVFTA) mà Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân.
Theo dự thảo, Biểu thuế xuất khẩu ưu đãi của Việt Nam để thực hiện Hiệp định EVFTA gồm mã hàng, mô tả hàng hóa, thuế suất cho từng năm, kể từ ngày ký ban hành đến hết ngày 31/12/2027, áp dụng đối với 737 dòng thuế.
Về mức thuế xuất khẩu ưu đãi: Thuế suất trung bình năm 2022 là 14,8%; năm 2023 là 10,1%; năm 2024 là 9,6%; năm 2025 là 8,4%; năm 2026 là 8% và năm 2027 là 7,5%.
Về điều kiện áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu ưu đãi theo Hiệp định EVFTA
Hiệp định EVFTA là hiệp định thứ hai sau Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam cam kết cắt giảm/xoá bỏ thuế xuất khẩu. Hiệp định này không có quy định cụ thể về các điều kiện để được hưởng thuế suất thuế xuất khẩu ưu đãi.
Tuy nhiên, để đảm bảo kiểm soát được hàng hóa thực tế được nhập khẩu vào các lãnh thổ quy định tại Nghị định theo đúng đối tượng và tránh gian lận thương mại, dự thảo Nghị định quy định điều kiện áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu ưu đãi là có bản sao chứng từ vận tải và tờ khai hải quan nhập khẩu thể hiện đích đến thuộc các lãnh thổ quy định tại Nghị định.
Về thủ tục áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu ưu đãi thực hiện Hiệp định EVFTA: Theo quy định hiện hành, người khai hải quan thực hiện khai hải quan theo quy định tại mục V của Nghị định số 08/2015/NĐ-CP và Nghị định số 59/2018/NĐ-CP. Tuy nhiên, biểu thuế xuất khẩu ưu đãi ban hành kèm theo dự thảo Nghị định chỉ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu có điểm đến là các lãnh thổ quy định tại Nghị định nên cần bổ sung 02 loại hồ sơ (bản sao chứng từ vận tải và bản sao tờ khai hải quan nhập khẩu) để tránh các trường hợp gian lận thương mại.
Việc bổ sung này không phát sinh thêm thủ tục hành chính mà chỉ phát sinh thêm giấy tờ cần nộp để chứng minh lô hàng đủ điều kiện được hưởng thuế suất thuế xuất khẩu ưu đãi. Việc bổ sung bản sao chứng từ vận tải và bản sao tờ khai nhập khẩu phù hợp với quy định của Điều 71 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019.
MAI HUỆ
Đề nghị người dân ký giấy cam kết nếu không tiêm vaccine Covid-19
4. Quốc hội thống nhất kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu
(LSVN) - Vừa qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 63/2022/QH15 ngày 16/06/2022 về Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV. Theo đó, Quốc hội thống nhất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14.
Ảnh minh họa.
Cụ thể, Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng do Quốc hội ban hành và có hiệu lực từ ngày 15/8/2017 và được thực hiện trong thời hạn 05 năm từ ngày có hiệu lực.
Về kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Quốc hội thống nhất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 từ ngày 15 tháng 8 năm 2022 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2023.
Quốc hội giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cùng với việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng; trình Quốc hội xem xét chậm nhất tại Kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2023).
Trong thời gian kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14, đề nghị Chính phủ có giải pháp khắc phục những khó khăn, vướng mắc nêu tại Báo cáo số 174/BC-CP ngày 11 tháng 5 năm 2022, chỉ đạo tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị gắn với trách nhiệm trong tổ chức thực hiện Nghị quyết, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của Nghị quyết.
TIẾN HƯNG
Từ ngày 01/7/2022 sẽ chuyển đổi sang hệ thống đấu thầu mới
5. Mức thu của hàng loạt phí, lệ phí sẽ được điều chỉnh lại từ ngày mai
(LSVN) - Hôm nay (30/6/2022) cũng là ngày cuối cùng người dân được hưởng chính sách giảm phí, lệ phí khi thực hiện một số thủ tục hành chính theo quy định tại Thông tư 120/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Ảnh minh họa.
Nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho những người dân và doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 120/2021/TT-BTC quy định về mức thu của một số khoản phí, lệ phí áp dụng từ ngày 01/01/2022 đến hết ngày 30/6/2022.
Thông tư này đã tiếp tục bổ sung thêm 03 khoản phí, lệ phí vào danh mục các khoản phí, lệ phí được giảm, đồng thời gia hạn thời gian được giảm mức thu của 34 khoản phí khác, nâng tổng số khoản phí, lệ phí được giảm từ 34 lên 37.
Điển hình có thể kể đến các khoản sau: Lệ phí cấp thẻ Căn cước công dân gắn chip; Lệ phí cấp hộ chiếu; Phí cấp giấy đăng kiểm, Lệ phí cấp, đổi giấy chứng nhận hành nghề và giám sát hoạt động chứng khoán; Lệ phí cấp giấy phép xuất khẩu lao động; Lệ phí cấp văn bằng bảo hộ, cấp chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ; Phí trong lĩnh vực y tế; Phí sử dụng đường bộ với xe kinh doanh vận tải khách, xe khách công cộng, xe tập lái, xe sát hạch,...
Các khoản lệ phí này được giảm từ 10 - 50% so với quy trước đó, áp dụng đến hết ngày 30/6/2022. Sang đến ngày 01/7/2022, 37 khoản phí, lệ phí này sẽ trở lại mức thu theo quy định trước đó.
Như vậy, hôm nay (30/6/2022) cũng là ngày cuối cùng người dân được hưởng chính sách giảm phí, lệ phí khi thực hiện một số thủ tục hành chính theo quy định tại Thông tư 120/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính.
HÀ ANH
Từ ngày 01/7/2022 sẽ chuyển đổi sang hệ thống đấu thầu mới
6. Hàn Quốc tăng 5% mức lương tối thiểu vào năm 2023
(LSVN) - Ngày 30/6, giới chức Hàn Quốc cho biết các đại diện của người lao động và người sử dụng lao động ở nước này đã đồng ý đề ra mức lương tối thiểu theo giờ của năm 2023 là 9.620 won (tương đương 7,41 USD), tăng 5% so với năm nay.
Phố mua sắm Myeongdong ở Seoul, Hàn Quốc. Ảnh (tư liệu) minh họa: AFP/TTXVN.
Ủy ban Tiền lương tối thiểu (MWC) gồm 9 thành viên đại diện cho người lao động, chủ doanh nghiệp và công chúng, tối 29/6 đã đạt được thỏa thuận trên trong một phiên họp toàn thể được tổ chức tại khu phức hợp chính phủ ở thành phố Sejong nằm cách thủ đô Seoul 112 km. Với mức trên, mức lương tối thiểu hằng tháng của người lao động Hàn Quốc là 2,02 triệu won, được áp dụng như nhau đối với tất cả các ngành.
Trong các cuộc đàm phán, đại diện giới lao động đã kêu gọi tăng lương đáng kể từ mức 9.160 won/giờ hiện nay theo như cam kết của chính quyền cựu Tổng thống Moon Jae-in là tăng lương tối thiểu theo giờ lên 10.000 won. Trong khi đó, phía người sử dụng lao động đã kêu gọi trì hoãn kế hoạch tăng lương do lo ngại gây thiệt hại kinh tế vốn đã hứng chịu tác động của đại dịch COVID-19, lãi suất và lạm phát tăng, tỷ giá hối đoái đều cao.
Theo luật, MWC phải đệ trình mức lương tối thiểu mới lên bộ trưởng lao động, sau đó bộ trưởng lao động sẽ thông báo công khai trước ngày 5/8. Mức lương mới sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/2023.
Dưới thời chính quyền của cựu Tổng thống Moon Jae-in, mức lương tối thiểu đã tăng 16,4% vào năm 2018, 10,9% vào năm 2019, 2,9% vào năm 2020 và tăng thấp nhất là 1,5% vào năm 2021.
TTXVN
Người bị tình nghi có quyền mời Luật sư khi bị triệu tập?
SÁNG1.
1. Giải quyết các vụ án hành chính về đất đai: Thực trạng và giải pháp
(LSVN) - Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước. Đất đai có vai trò quan trọng đối với cuộc sống con người, nó có ý nghĩa hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia. Xã hội ngày càng phát triển, các tranh chấp hành chính càng trở nên phức tạp và rắc rối hơn, đặc biệt trong đó là các vụ án hành chính liên quan đến vấn đề đất đai. Các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng, tính chất phức tạp, phát sinh nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến các mặt của đời sống xã hội.
Ảnh minh họa.
Thực trạng pháp luật về giải quyết vụ án hành chính liên quan đến đất đai
Giải quyết vụ án hành chính về đất đai là hoạt động tố tụng của Tòa án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khác nhằm đưa ra những phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính của các chủ thể có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước về đất đai bị các cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện.
Khởi kiện vụ án hành chính về đất đai
Đối với khởi kiện vụ án hành chính về đất đai, không phải bất cứ ai cứ có đơn khởi kiện là Tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án. Để được Tòa án thụ lý một vụ án hành chính về đất đai thì người khởi kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện như sau:
Một là, về người khởi kiện
Thứ nhất, người khởi kiện phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hành chính. Cá nhân là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, cá nhân là người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật. Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính về đất đai được xác định là người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có quyền khởi kiện vụ án hành chính về đất đai.
Thứ hai, người khởi kiện phải là người có quyền, lợi ích phải bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai. Do đó, khi tham gia khởi kiện vụ án hành chính về đất đai thì người khởi kiện phải chứng minh được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thì mới có quyền khởi kiện vụ án ra Tòa án để giải quyết.
Hai là, về đối tượng khởi kiện.
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì đối tượng khởi kiện vụ án hành chính về đất đai bao gồm: quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai. Đồng thời quyết định hành chính, hành vi hành chính phải có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, trừ các quyết định, hành vi sau đây: quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật; quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng; quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Ba là, thời hiệu khởi kiện.
Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được quy định khác nhau đối với từng đối tượng khởi kiện. Theo Điều 116 Luật Tố tụng hành chính, thời hiệu khởi kiện quyết định quản lý hành chính đất đai là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính đó.
Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.
Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về đất đai là kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính cho đến ngày khởi kiện.
Bốn là, quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chưa được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Năm là, thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì thẩm quyền của Tòa án là thẩm quyền bắt buộc bao gồm thẩm quyền theo loại việc và thẩm quyền theo cấp và lãnh thổ. Thẩm quyền theo cấp xét xử và theo lãnh thổ nói chung và đối với các vụ án hành chính đất đai nói riêng được quy định tại Điều 31 và 32 Luật Tố tụng hành chính.
Sáu là, hình thức và nội dung đơn khởi kiện phải đầy đủ các nội dung chính: ngày, tháng, năm làm đơn; Tòa án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính; tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung quyết định hành chính hoặc tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính về đất đai; nội dung giải quyết khiếu nại (nếu có); yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết và cam đoan về việc không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Thụ lý vụ án hành chính về đất đai
Thụ lý vụ án hành chính là việc Tòa án chính thức chấp nhận yêu cầu giải quyết tranh chấp hành chính của người khởi kiện. Việc khởi kiện ngoài đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện còn đáp ứng các điều kiện khác như nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định và không thuộc các trường hợp bị trả lại đơn khởi kiện.
Thời điểm thụ lý vụ án hành chính về đất đai: Tòa án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày thẩm phán thông báo cho người khởi kiện biết việc thụ lý.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, chánh án Tòa án phân công một thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây: yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện quy định; chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác; trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật Tố tụng hành chính. Kết quả xử lý đơn của thẩm phán phải được thông báo cho người khởi kiện, phải ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo trên cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Thủ tục đối thoại và chuẩn bị xét xử vụ án hành chính về đất đai
Đây là một giai đoạn của quá trình tố tụng, được thực hiện trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Điều 20 Luật Tố tụng hành chính quy định: Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật này. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào Tòa án cũng có trách nhiệm tiến hành đối thoại, bởi lẽ có những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại khi giải quyết, đó là những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 Luật Tố tụng hành chính.
Thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết vụ án hành chính về đất đai
Thứ nhất, về xác định chủ thể khởi kiện. Theo quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính thì chủ thể khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính được ban hành hoặc thực hiện. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 thì người sử dụng đất ngoài cá nhân, cơ quan tổ chức theo quy định nêu trên còn các đối tượng khác, đó chính là cộng đồng dân cư gồm những người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp,…; cơ sở tôn giáo như chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất... Những đối tượng này có thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và được công nhận quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng việc thành lập và hoạt động không cần đăng ký theo quy định của pháp luật. Những đối tượng này có được quyền khởi kiện vụ án hành chính về đất đai hay không thì hiện tại pháp luật còn bỏ ngỏ, chưa có quy định rõ ràng. Những chủ thể này vẫn có thể chịu ảnh hưởng bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quá trình sử dụng đất, tuy nhiên Luật Tố tụng hành chính không có quy định về vấn đề này. Do đó, cần bổ sung chủ thể có quyền khởi kiện hành chính liên quan đến việc sử dụng đất để có sự đồng nhất giữa Luật Đất đai và Luật Tố tụng hành chính để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng là cộng đồng dân cư và cơ sở tôn giáo.
Thứ hai, về đối tượng khởi kiện vụ án hành chính về đất đai. Theo quy định thì đối tượng khởi kiện vụ án hành chính về đất đai là các quyết định hành chính, hành vi hành chính có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Qua thực tế cho thấy, có rất nhiều quyết định hành chính gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích của người dân như quyết định phê duyệt phương án bồi thường tổng thể, quyết định phê duyệt quy hoạch kế hoạch sử dụng đất tại địa phương... nhưng không thuộc đối tượng khởi kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, dẫn tới nhiều thiệt hại trên thực tế.
Thứ ba, về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính về đất đai. Theo Điều 30, 31, 32 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết khởi kiện liên quan đến quyết định hành chính quản lý về đất đai.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai của các cơ quan nhà nước cấp cao ở Trung ương: các bộ và cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng tiếp nhận khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân cấp huyện, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
Quy định như trên bảo đảm sự độc lập trong xét xử đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, có thể thấy đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa thực sự bảo đảm vô tư, khách quan và độc lập trong xét xử.
Thứ tư, về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính. Điều 130 Luật Tố tụng hành chính quy định thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài và vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri như sau: 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này; 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này. Như vậy là còn thiếu quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp tại khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính(1), vô tình dẫn tới sự không thống nhất về mặt thời gian xét xử đối với những trường hợp này.
Giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hành chính về đất đai
Thứ nhất, để công tác quản lý nhà nước về đất đai được hiệu quả, thống nhất và đồng bộ cần khắc phục những vướng mắc trong quan hệ giữa Luật Đất đai với các văn bản pháp luật chuyên ngành khác có liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Nhà ở…
Thứ hai, Luật Tố tụng hành chính đã quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện được chuyển cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, những quyết định hành chính, hành vi hành chính cấp tỉnh thì vẫn trao quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh dẫn tới việc xét xử chưa thực sự hiệu quả, chưa bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử. Để thẩm phán độc lập xét xử và giải quyết một cách khách quan và hiệu quả các vụ án hành chính thì nên trao quyền xét xử vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh cho Tòa án nhân dân cấp trên là Tòa cấp cao để bảo đảm hoạt động xét xử vụ án hành chính về đất đai được công bằng, khách quan.
Thứ ba, quy định cụ thể về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính. Việc thiếu quy định đối với thời hạn chuẩn bị xét xử của các trường hợp này dẫn tới việc áp dụng thời gian chuẩn bị xét xử chưa thống nhất, cần quy định thêm về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với những trường hợp này và áp dụng thời gian là 02 tháng để rút gọn hơn thời gian chuẩn bị xét xử khi những quyết định này đã mất thêm thời gian giải quyết khiếu nại để bảo đảm thời gian giải quyết vụ án hành chính hiện nay.
Thứ tư, cần nâng cao chất lượng quản lý hành chính về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính cần có sự phối hợp, trao đổi để đưa ra những giải pháp cụ thể giúp phòng ngừa và hạn chế các vụ án liên quan đến đất đai.
Đối với các cơ quan hành chính nhà nước, khi ban hành các quyết định hành chính, hoặc thực hiện hành vi hành chính cần chú trọng đến các quy định pháp luật, đặc biệt các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai. Đây là lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm trong đời sống xã hội, ngoài áp dụng quy định pháp luật cần phải xem xét cả về thực tiễn quá trình quản lý, sử dụng đất, nhất là công tác cưỡng chế thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, cần phải thực hiện đúng quy trình, thủ tục, thẩm quyền, bảo đảm tính công khai, dân chủ và quyền lợi của nhân dân. Khi có khiếu kiện, chỉ đạo xem xét, giải quyết kịp thời, đúng trình tự, thủ tục, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, đặc biệt là các quy định pháp luật liên quan đến đất đai, chính sách đến bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
Công tác giải quyết khiếu nại hành chính cũng cần đặc biệt quan trọng. Cần tiến hành đối thoại qua đó xác minh để có kết luận giải quyết khiếu nại được khách quan, chính xác. Chủ động chỉ đạo, tổ chức phối hợp giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới. Phát huy tối đa hiệu quả việc đối thoại, gặp gỡ, trao đổi với người khiếu nại, đặc biệt là đối với các vụ việc khiếu nại đông người, phức tạp, gay gắt, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người khiếu nại.
Ngoài ra, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, phối hợp tuyên truyền, vận động bảo đảm cho các quyết định giải quyết khiếu nại được thực hiện có hiệu quả. Đồng thời giải quyết dứt điểm ngay các vụ việc mới phát sinh tại cơ sở.
Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng. Cần nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu được các quy định của pháp luật về đất đai, hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để tuân thủ các quy định pháp luật về đất đai.
Ngoài ra, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại các phiên tòa là điều rất quan trọng. Thông qua việc xét xử công khai các vụ án hành chính về đất đai, người dân theo dõi, quan sát, đánh giá hội đồng xét xử, nắm được trình tự, thủ tục tố tụng và các nội dung giải quyết, các quy định pháp luật áp dụng. Từ đó nâng cao nhận thức về pháp luật cho người dân, giúp chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng một cách nghiêm túc và hiệu quả. N.P.H
Tài liệu tham khảo: 1. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 2. Luật Tố tụng hành chính năm 2015. 3. Luật Đất đai năm 2013. 4. Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính. 5. Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP. |
(1) Khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính quy định như sau: Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. |
NGUYỄN PHI HÙNG
Tòa án Quân sự Quân khu 4
Pháp luật về dân chủ trực tiếp trong Hiến pháp năm 2013
2. Những chính sách mới sẽ chính thức có hiệu lực từ tháng 7/2022
(LSVN) - Tăng mức lương tối thiểu vùng từ ngày 01/7/2022; Triển khai cấp hộ chiếu phổ thông mẫu mới cho công dân; Xóa bỏ hóa đơn giấy, chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử; Dừng hỗ trợ mức đóng vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;… là hàng loạt chính sách pháp luật mới sẽ chính thức có hiệu lực từ tháng 7/2022.
Ảnh minh họa.
Tăng mức lương tối thiểu vùng từ ngày 01/7/2022
Nghị định 38/2022/NĐ-CP sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2022 đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng với mức tăng bình quân là 6%. Đây chính là mức tiền lương thấp nhất làm cơ sở để các bên thuận và trả lương cho người lao động.
Theo đó, từ ngày 01/7/2022, người lao động làm việc tại doanh nghiệp sẽ được áp dụng mức lương tối thiểu vùng mới như sau: Vùng I, mức lương tối thiểu tháng là 4.680.000 đồng/tháng, mức lương tối thiểu giờ 22.500 đồng/giờ. Vùng II mức lương tối thiểu tháng là 4.160.000 đồng/tháng, mức lương tối thiểu giờ 20.000 đồng/giờ. Vùng III, mức lương tối thiểu tháng là 3.640.000 đồng/tháng, mức lương tối thiểu giờ 17.500 đồng/giờ. Vùng IV, mức lương tối thiểu tháng là 3.250.000 đồng/tháng, mức lương tối thiểu giờ 15.600 đồng/giờ.
Đây cũng là lần đầu tiên Chính phủ chính thức quy định mức lương tối thiểu giờ làm cơ sở để trả lương cho người lao động làm việc theo giờ. Quy định này được kỳ vọng sẽ góp phần đảm bảo tiền lương cho những người lao động làm công việc mang tính chất linh hoạt, không trọn thời gian trong các hộ gia đình, các cơ sở kinh doanh nhỏ lẻ như nhà hàng, siêu thị, quán cà phê...
Triển khai cấp hộ chiếu phổ thông mẫu mới cho công dân
Nhằm triển khai Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, ngày 29/6/2021, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 73/2021/TT-BCA quy định về mẫu hộ chiếu, giấy thông hành và các biểu mẫu liên quan. Theo đó, từ ngày 01/7/2022, Bộ Công an sẽ bắt đầu triển khai cấp hộ chiếu phổ thông mẫu mới cho công dân.
So với mẫu hiện hành, mẫu hộ chiếu phổ thông mới có nhiều cải tiến. Mẫu hộ chiếu mới được thiết kế công phu, trên mỗi trang là hình ảnh tiêu biểu phong cảnh, hình tượng về chủ quyền quốc gia, di sản văn hóa nổi tiếng của đất nước như: Vịnh Hạ Long, Kinh đô Huế, Đền Hùng, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Bến cảng Nhà Rồng, Cột cờ Lũng Cú, cổng Tò Vò - Đảo Lý Sơn…, góp phần khẳng định và quảng bá những hình ảnh Việt Nam ra thế giới, thể hiện được truyền thống, lịch sử, địa lý, văn hóa Việt Nam. Mẫu hộ chiếu phổ thông mới đảm bảo các kỹ thuật bảo an, khó làm giả.
Theo thông tin ban đầu của Bộ Công an, chip này sẽ lưu các thông tin được mã hóa của người mang hộ chiếu và chữ ký số của người cấp. Ngoài ra, nó có thể lưu trữ đặc điểm sinh trắc học, ảnh hay thông tin cá nhân của công dân.
Xóa bỏ hóa đơn giấy, chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử
Nghị định 123/2020/NĐ-CP và Thông tư 78/2021/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý thuế, Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ cùng có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2022.
Theo đó, từ ngày 01/7/2022, bắt buộc áp dụng hóa đơn điện tử, trừ một số trường hợp như doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ, cá nhân kinh doanh tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn không thực hiện giao dịch với cơ quan thuế bằng phương tiện điện tử, không có hệ thống phần mềm kế toán,…
Thực tế, việc áp dụng hóa đơn điện tử đã được triển khai đồng bộ tại 63 tỉnh, thành trên cả nước từ tháng 4/2022 nhưng do thời gian áp dụng chưa lâu nên trong quá trình sử dụng hóa đơn điện tử, các doanh nghiệp vẫn còn gặp khá nhiều vướng mắc.
Bỏ chứng chỉ ngoại ngữ, tin học cho công chức kế toán, thuế, hải quan
Từ 18/7/2022, Thông tư 29/2022/TT-BTC của Bộ Tài chính về mã số, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và xếp lương ngạch công chức ngành kế toán, thuế, hải quan, dự trữ sẽ chính thức có hiệu lực.
Theo đó, Thông tư mới đã không còn yêu cầu các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ trong phần tiêu chuẩn trình độ đào tạo của các ngạch công chức chuyên ngành thuế, kế toán, hải quản. Thay vào đó, công chức là kế toán viên, kiểm tra viên thuế, kiểm tra viên hải quan chỉ cần đảm bảo có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản và sử dụng được ngoại ngữ hoặc sử dụng được tiếng dân tộc thiểu số đối với công chức công tác ở vùng dân tộc thiểu số theo yêu cầu của vị trí việc làm.
Quy định về kỳ kế toán thuế nội địa
Ngày 14/12/2021, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 111/2021/TT-BTC hướng dẫn kế toán nghiệp vụ thuế nội địa. Theo đó, kỳ kế toán thuế được xác định theo năm dương lịch, gọi là năm kế toán, bao gồm 4 ký tự. Cụ thể:
- Kỳ kế toán thuế được tính từ đầu ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 năm dương lịch.
- Kỳ kế toán thuế năm đầu tiên đối với đơn vị kế toán thuế mới thành lập được xác định từ đầu ngày quyết định thành lập mới, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập đơn vị kế toán thuế có hiệu lực đến hết ngày 31/12 năm dương lịch.
- Kỳ kế toán thuế cuối cùng của đơn vị kế toán thuế khi bị chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể tính từ đầu ngày 01/01 năm dương lịch đến hết ngày trước ngày quyết định chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể đơn vị kế toán thuế có hiệu lực.
Thời gian của kỳ kế toán thuế năm đầu tiên, năm cuối cùng thực hiện theo hướng dẫn của Luật kế toán và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thông tư 111/2021/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 01/7/2022.
Hỗ trợ học phí đến 25.000 USD/năm cho giảng viên học nâng cao ở nước ngoài
Để thực hiện Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đại học, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 30/2022/TT-BTC, trong đó hướng dẫn về cơ chế tài chính hỗ trợ giảng viên được cử tham gia đào tạo trình độ tiến sĩ và thạc sĩ toàn thời gian ở nước ngoài như sau:
- Học phí: Tối đa 25.000 USD/năm học. Trường hợp học phí cao hơn 25.000 USD/năm học thì mức chênh lệch cao hơn do người học tự chi trả.
- Chi phí làm hộ chiếu, visa: Thanh toán theo chi phí thực tế.
- Sinh hoạt phí gồm: Tiền ăn, ở, đi lại hàng ngày, tiền tài liệu và đồ dùng học tập được cấp theo thời gian học tập thực tế ở nước ngoài.
- Bảo hiểm y tế bắt buộc: Thanh toán theo quy định của nước sở tại, tối đa 1.000 USD/năm.
- Tiền vé máy bay đi và về: 01 lượt đi và về.
- Chí phí đi đường: Được cấp 01 lần chi phí đi đường với mức khoán là 100 USD/người...
Thông tư này chính thức được áp dụng từ ngày 20/7/2022.
Dừng hỗ trợ mức đóng vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Tại Nghị quyết 68/NQ-CP năm 2021, Chính phủ đã cho phép người sử dụng lao động gặp khó khăn do Covid-19 được áp dụng mức đóng bằng 0% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong 12 tháng (từ ngày 01/7/2021 đến hết ngày 30/6/2022).
Đến ngày 01/7/2022, chính sách hỗ trợ này sẽ kết thúc, doanh nghiệp phải tiến hành đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo mức cũ.
Cụ thể, theo Điều 4 Nghị định 58/2020/NĐ-CP, mức đóng BHXH bắt buộc vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ ngày 01/7/2022 được xác định như sau:
- Doanh nghiệp đủ điều kiện được đóng với mức thấp: Đóng 0,3%.
- Doanh nghiệp còn lại: Đóng 0,5%.
Thi đại học chỉ được cộng điểm ưu tiên khu vực trong 2 năm
Theo Quy chế tuyển sinh đại học mới nhất được ban hành tại Thông tư 08/2022/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 22/7/2022, chính sách ưu tiên theo khu vực được quy định như sau:
- Mức điểm ưu tiên áp dụng cho khu vực 1 (KV1) = 0,75 điểm.
- Mức điểm ưu tiên áp dụng cho khu vực 2 nông thôn (KV2-NT) = 0,5 điểm.
- Mức điểm ưu tiên áp dụng cho khu vực 2 (KV2) = 0,25 điểm. - Mức điểm ưu tiên áp dụng cho khu vực 3 (KV3) = 0 điểm.
Tuy nhiên, điểm d Điều 7 Quy chế này cũng nêu rõ, từ năm 2023, thí sinh được hưởng chính sách ưu tiên khu vực theo quy định trong năm tốt nghiệp trung học phổ thông (hoặc trung cấp) và một năm kế tiếp.
Như vậy, thí sinh thi đại học từ năm 2023 chỉ được cộng điểm ưu tiên khu vực trong tối đa 2 năm là năm tốt nghiệp cấp 3 và năm kế tiếp.
Cập nhật chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu D điện tử
Thông tư 10/2022/TT-BCT ban hành ngày 01/6/2022 sửa đổi Thông tư 22/2016/TT-BCT thực hiện Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN bắt đầu có hiệu lực thi hành.
Theo đó, C/O mẫu D điện tử (mẫu mới) được ban hành kèm theo Thông tư 10/2022/TT-BCT.
Còn C/O mẫu D theo quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư 19/2020/TT-BCT (mẫu cũ) được cấp đến hết ngày 31/10/2022 và được cơ quan hải quan chấp nhận trong thời hạn quy định tại Điều 15 Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư 19/2020/TT-BCT.
Như vậy, trong giai đoạn chuyển tiếp từ nay đến hết ngày 31/10/2022, cơ quan hải quan chấp nhận đồng thời C/O mẫu D mẫu cũ và C/O mẫu D mới.
Từ ngày 01/11/2022, cơ quan hải quan chỉ chấp nhận C/O mẫu D (mẫu mới).
Ngoài ra, Thông tư 10/2022/TT-BCT cũng hướng dẫn cụ thể về chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa (tại Điều 12 của Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư 10/2022/TT-BCT) sau thời gian thực hiện thí điểm theo Thông tư 22/2016/TT-BCT.
Thông tư có hiệu lực từ ngày 16/7/2022.
HỒNG HẠNH
Từ ngày 01/7/2022 sẽ chuyển đổi sang hệ thống đấu thầu mới
3. Rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng
(LSVN) - Vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2022 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Trong đó nêu rõ cần thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Ảnh minh họa.
Cụ thể, tại tiểu mục 1 Mục II Nghị quyết 21-NQ/TW quy định quan điểm về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.
Cụ thể, cần tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Ðảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, liên tục, là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đề cao tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; nâng cao chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở, nhất là bí thư cấp uỷ.
Đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, đồng thời mỗi đảng viên phải tự ý thức học tập, rèn luyện nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, quan tâm phát triển đảng viên trong đoàn viên thanh niên và công đoàn, hội viên ưu tú, quần chúng tiêu biểu, nhất là ở địa bàn khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo, khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vùng dân tộc thiểu số.
Nghị quyết 21-NQ/TW nhấn mạnh thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
HỒNG HẠNH
Bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch HĐND, UBND nơi có điều kiện
4. Nam thanh niên xông vào nhà khống chế, sàm sỡ cô gái: Hành vi gây ra nhiều hệ luỵ cho xã hội
(LSVN) - Theo Luật sư, hành vi của nam thanh niên trong clip là hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và quyền tự do thân thể của người khác. Tuỳ thuộc vào mục đích của hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra mà người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nam thanh niên sàm sỡ cô gái ngay tại nhà để xe. (Ảnh cắt từ clip).
Mới đây, mạng xã hội xôn xao clip một cô gái trẻ trong lúc đi xe máy về khu nhà trọ thì bất ngờ bị một nam thanh niên lao vào bịt miệng, sàm sỡ.
Theo hình ảnh được lưu lại từ camera an ninh, khoảng 00h25 ngày 28/6, cô gái đi xe máy vào nhà trọ ở phố Đông Tác (phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội). Lúc này, một nam thanh niên đeo kính, mặc đồ đen xông vào khống chế, một tay bịt miệng, tay còn lại sàm sỡ vùng nhạy cảm của cô gái trẻ, mặc nạn nhân cố sức phản kháng.
Công an phường Kim Liên đang xác minh vụ việc.
Dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết hành vi của nam thanh niên trong clip này là hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và quyền tự do thân thể của người khác. Tuỳ thuộc vào mục đích của hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra mà người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Luật sư Cường đánh giá "Hành vi của đối tượng này thể hiện thái độ coi thường pháp luật, coi thường danh dự, nhân phẩm của người khác và còn có nguy cơ nghiêm trọng hơn là xâm hại tình dục, xâm phạm đến tài sản của nạn nhân. Vì vậy cơ quan điều tra cần sớm vào cuộc, xác minh làm rõ hành vi của đối tượng, xác định hậu quả xảy ra đối với nạn nhân và xã hội để có hình thức xử lý phù hợp với quy định pháp luật".
Về trách nhiệm hình sự, trường hợp hành vi với mục đích nhằm giao cấu trái ý muốn với nạn nhân, có đủ các yếu tố cấu thành tội "Hiếp dâm" thì cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự.
Nếu hành vi của đối tượng chỉ là sàm sỡ, quấy rối tình dục, xâm phạm đến quyền tự do thân thể, danh dự nhân phẩm của người khác nhưng hành vi này diễn ra nhiều lần, với nhiều người nơi công cộng và gây ra dư luận xấu trong xã hội thì cơ quan điều tra có thể khởi tố đối tượng này về tội "Gây rối trật tự công cộng" theo quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự với hình phạt có thể tới 7 năm tù.
Trường hợp đã xác định được danh tính, hành vi của đối tượng này như trong clip và không chứng minh được hành vi khác như hiếp dâm, cướp tài sản và hành vi sàm sỡ, quấy rối tình dục thực hiện lần đầu và duy nhất thì riêng hành vi sàm sỡ với người phụ nữ trong clip thì đối tượng này sẽ bị phạt hành chính tới mức phạt từ 05 triệu đến 08 triệu đồng theo quy định tại điểm đ, khoản 5, Điều 7, Nghị định 144/2021/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội. Cụ thể:
"5. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
b) Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc công cụ, đồ vật, phương tiện khác có khả năng sát thương;
c) Quay phim, chụp ảnh, vẽ sơ đồ địa điểm cấm, khu vực cấm liên quan đến quốc phòng, an ninh;
d) Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
đ) Sàm sỡ, quấy rối tình dục;".
TIẾN HƯNG
Tòa án xét xử kín trong trường hợp nào?
5.
CHỦ NHẬT
1. Mức xử phạt đối với hành vi vi phạm các quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự
(LSVN) – Đây là một trong những nội dung đáng chú ý Nghị định số 37/2022/NĐ-CP ngày 06/6/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cụ thể, Nghị định số 37/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 9 Nghị định số 120/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu.
Theo đó, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
- Báo cáo không đầy đủ danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi; báo cáo không đầy đủ số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định;
- Cố ý báo cáo không chính xác danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi; báo cáo không chính xác số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định.
Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
- Không báo cáo danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi;
- Không báo cáo số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định.
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi không tiếp nhận trở lại trường học; không tiếp nhận và bố trí việc làm cho hạ sĩ quan, binh sĩ đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cơ quan, tổ chức cũ làm việc.
Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thực hiện việc báo cáo theo quy định đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Buộc tiếp nhận trở lại trường học; tiếp nhận và bố trí việc làm cho hạ sĩ quan, binh sĩ đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cơ quan, tổ chức cũ làm việc đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 Điều này.
DUY ANH
Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa
2. Điều kiện mua nhà ở để phục vụ tái định cư
(LSVN) - Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về điều kiện mua nhà ở để phục vụ tái định cư? Bạn đọc P.L. hỏi.
Ảnh minh họa.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật Nhà ở 2014, nhà ở để phục vụ tái định cư là nhà ở để bố trí cho các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, bị giải tỏa nhà ở theo quy định của pháp luật.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 30 Nghị định 99/2015/NĐ-CP, có 03 đối tượng thuộc diện được thuê, thuê mua, mua nhà ở để phục vụ tái định cư bao gồm:
- Hộ gia đình, cá nhân có nhà ở hợp pháp thuộc diện bị giải tỏa khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng theo quy hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
- Hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất ở gắn với nhà ở và phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai và không có chỗ ở nào khác;
- Hộ gia đình, cá nhân là chủ sở hữu nhà chung cư thuộc diện phải phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại theo quy định tại Điều 110 của Luật Nhà ở 2014.
Về điều kiện mua nhà ở để phục vụ tái định cư quy định tại khoản 2 Điều 30 Nghị định 99/2015/NĐ-CP như sau:
- Trường hợp đối tượng thuộc (1) và (2) mục 2,có nhu cầu mua nhà ở thương mại hoặc thuê, thuê mua, mua nhà ở phục vụ tái định cư do Nhà nước đầu tư thì phải có tên trong danh sách được bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và có đơn đề nghị bố trí nhà ở tái định cư theo mẫu do Bộ Xây dựng ban hành;
- Trường hợp đối tượng quy định thuộc (1), (2) có nhu cầu thuê, thuê mua, mua nhà ở xã hội thì phải có tên trong danh sách được bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, có đơn đề nghị bố trí nhà ở tái định cư bằng nhà ở xã hội theo mẫu do Bộ Xây dựng ban hành và phải thuộc diện chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở;
- Trường hợp thuộc đối tượng (3) thì được bố trí nhà ở tái định cư theo quy định tại Điều 115, Điều 116 của Luật Nhà ở 2014 và pháp luật về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư.
Như vậy để mua nhà ở phục vụ tái định cư thì hộ gia đình, cá nhân phải thuộc điều kiện nêu trên.
TIẾN HƯNG
Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa
3. VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm vụ án hình sự
(LSVN) - Thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án Nguyễn Cao Minh T và đồng phạm, phạm tội “Giết người" và tội "Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng", bị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm vì quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không đúng với quy định pháp luật, VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng thấy cần thông báo để các Viện Kiểm sát trong khu vực rút kinh nghiệm chung.
Ảnh minh họa.
Nội dung vụ án
Đêm ngày 19/11/2020, vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt giữa Võ Tuấn Q. (Q. lùn) và Nguyễn Xuân H. (H. Ven), Nguyễn Cao Minh T. (T. lực sỹ) đã chuẩn bị một khẩu súng AK (với hộp tiếp đạn có 04 viên đạn), Nguyễn Đức Việt Đ. chuẩn bị 01 khẩu súng tự chế, sau đó cùng Võ Tuấn Q., Phạm Hoàng A. điều khiển xe mô tô đi tìm nhóm thanh niên Võ Lâm (nhóm H. Ven) để đánh nhau. Đến khu vực ngã ba đường ĐD – DT, thấy có nhóm thanh niên đang đuổi theo từ phía sau nghi ngờ là nhóm người của H. Ven nên Nguyễn Cao Minh T. đã lấy hộp tiếp đạn lắp vào súng, lên đạn và bắn 2 phát liên tục hướng lên trời; Nguyễn Đức Việt Đ. cũng lấy súng ra hướng ra sau bắn 01 phát. Sau khi bắn, thấy nhóm này vẫn đuổi theo nên T. đã hướng nòng súng AK về phía nhóm thanh niên phía sau bắn một phát. Viên đạn do T. bắn đã trúng vào bụng Trần Đức Y. đang điều khiển xe mô tô đi phía sau cùng chiều gây thương tích với vết thương thủng dạ dày do hỏa khí, với tỷ lệ tổn thương 32%.
Sau khi gây án, T. đã giấu khẩu súng AK vào lùm cây bên đường và điện thoại báo cho Nguyễn Thành G. (Tý), Q cũng để xe mô tô lại rồi bỏ chạy. Nguyễn Đức Việt Đ. và Phạm Hoàng A. đã đến vị trí cất giấu súng AK và lấy súng bỏ vào túi da màu đen kèm theo 02 viên đạn thể thao và 02 viên đạn AK đưa Nguyễn Thành G. đem túi đựng súng đi cất giấu.
Quá trình xử lý vụ án
* Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 06/01/2022 của TAND tỉnh K đã tuyên các bị cáo phạm tội như sau:
- Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 khoản 3 Điều 57; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự (BLHS), xử phạt bị cáo Nguyễn Cao Minh T. 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”. Áp dụng: khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Cao Minh T. 03 (ba) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Áp dụng Điều 55 BLHS: Tổng hợp hình phạt với bị cáo Nguyễn Cao Minh T.: 17 (mười bảy) năm tù.
- Áp dụng: Điểm n, p khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57; Điều 58; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Võ Tuấn Q. 11 (mười một) năm tù về tội “Giết người”.
- Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57; Điều 58; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Hoàng A. 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”. Áp dụng: khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Hoàng A. 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Áp dụng Điều 55 BLHS: Tổng hợp hình phạt với bị cáo Phạm Hoàng A.: 10 (mười) năm 10 (mười) tháng tù.
- Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 101; khoản 3 Điều 102; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Áp dụng Điều 104 BLHS: Tổng hợp hình phạt với Bản án số 67/2021/HS-ST ngày 17/6/2021 của TAND thành phố K, bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. phải chịu hình phạt chung cho cả hai bản án là: 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành G. 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/11/2020.
- Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng và án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
* Bản án hình sự phúc thẩm số 66/2022/HS-PT ngày 21/3/2022 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. sửa một phần Bản án sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 06/01/2022 của TAND tỉnh K. Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 57; khoản 2 Điều 101; khoản 3 Điều 102; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. 04 (bốn) năm tù về tội “Giết người”.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm
Tòa án nhân dân tỉnh K quyết định hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. không đúng quy định pháp luật, vì: Nguyễn Đức Việt Đ. khi thực hiện hành vi phạm tội chỉ mới 15 tuổi 9 tháng 07 ngày, bị cáo phạm tội cùng với các đồng phạm khác thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 57 BLHS. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 năm 06 tháng tù về tội “Giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS, là có vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật để xét xử người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt theo quy định tại khoản 2 Điều 101 và khoản 3 Điều 102 BLHS.
Khoản 2 Điều 101 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau: “Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù”;
Khoản 3 Điều 102 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt cao nhất tại Điều 100 và 101 của Bộ luật này”.
Theo những quy định trên thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. là 04 năm tù. Bản án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 06 năm 06 tháng tù là vượt quá mức án tối đa mà luật quy định.
PV
Phân biệt giữa khiếu nại hành chính và khởi kiện hành chính1.
4. Điều kiện để Công an xã được quyền đăng ký, cấp biển số xe máy
(LSVN) -
Tại khoản 6 Điều 3 Thông tư 58/2020/TT-BCA, được sửa bởi Thông tư 15/2022/TT-BCA quy định rõ Công an xã, phường, thị trấn (sau đây viết gọn là Công an cấp xã) đăng ký, cấp biển số xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, doanh nghiệp quân đội, cá nhân trong nước có trụ sở hoặc nơi thường trú tại địa phương mình và cơ quan, tổ chức, cá nhân người nước ngoài, của dự án, tổ chức kinh tế liên doanh với nước ngoài tại địa phương mình; tổ chức thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe hết niên hạn sử dụng, xe hỏng không sử dụng được của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trụ sở hoặc nơi thường trú tại địa phương.
Điều kiện, thẩm quyền đăng ký, cấp biển số xe của Công an cấp xã thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 26 Thông tư này. Cụ thể, căn cứ vào điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin tại địa phương, Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định sau khi thống nhất với Cục Cảnh sát giao thông:
- Thực hiện phân cấp đăng ký xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên cho Công an cấp huyện, thời gian hoàn thành trước ngày 31/12/2022.
- Thực hiện phân cấp đăng ký, biển số xe ô tô, xe máy kéo, rơmoóc, sơ mi rơmoóc và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên cho Công an cấp huyện; thời gian hoàn thành trước ngày 31/12/2022.
- Thực hiện phân cấp đăng ký, biển số xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên cho Công an cấp xã có số lượng trung bình 03 năm liền kề gần nhất, đã đăng ký mới từ 250 xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) trở lên trong 01 năm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trụ sở hoặc nơi thường trú tại địa bàn cấp xã (trừ các quận, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; các thành phố thuộc tỉnh nơi Phòng Cảnh sát giao thông đặt trụ sở và cấp xã nơi Công an cấp huyện đặt trụ sở).
- Thực hiện thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe hết niên hạn sử dụng, xe hỏng không sử dụng được trên Cổng Dịch vụ công Bộ Công an, Cổng Dịch vụ công quốc gia, thời gian hoàn thành trước ngày 31/12/2022.
Như vậy, xã nào mà trong 03 năm gần nhất có số lượng xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) đã đăng ký mới của cá nhân đăng ký thường trú; cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đặt trụ sở trên địa bàn từ xã đó từ 250 xe trở lên/năm thì công an xã sẽ được giao quyền cấp đăng ký, biển số xe máy.
Với những xã không đủ điều kiện để được cấp biển số xe theo quy định tại Thông tư 15/2022/TT-BCA thì việc đăng ký, cấp biển số xe sẽ được giải quyết tại Công an cấp huyện.
TIẾN HƯNG
Quy trình bãi nhiệm tư cách ĐBQH theo quy định pháp luật?
5. B có phạm tội ‘Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy’?
(LSVN) - B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị Công an bắt quả tang. Hành vi của B có phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” hay không? Tình huống này hiện có những quan điểm giải quyết khác nhau.
B là một đối tượng nghiện ma túy lâu năm. Vào ngày 20/10/2021 đối tượng B, sinh năm 1995 đang sử dụng ma tuý tại nhà mình (nhà của B do B đứng tên và quản lý) thì có 04 bạn nghiện đến chơi, thấy B có ma tuý và các dụng cụ sử dụng ma tuý ở đó nên 04 đối tượng này cùng vào sử dụng chung với B. Vì là bạn bè nên B đồng ý cho tất cả cùng sử dụng ma tuý tại nhà mình. Đang trong quá trình sử dụng ma tuý thì các đối tượng này bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ các dụng cụ sử dụng ma tuý và các mảnh giấy bạc (theo giám định là có bám dính ma tuý MDMA - không xác định được khối lượng do còn quá ít).
Thực tiễn vụ án trên ta thấy Nguyễn Văn B mua ma tuý về chỉ để sử dụng và không có mục đích khác, lượng ma túy thu giữ không đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, do đó trong trường hợp này chỉ xem xét đến việc hành vi nêu trên của B có phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Điều 256 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 hay không?
Về vụ việc này có một số quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất: Hành vi nêu trên của B không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì theo Điều 256 BLHS năm 2015 thì tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định như sau:
“1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Mặt khác, đối chiếu với Điều 256 BLHS năm 2015 ta thấy ngôi nhà là của B, do B đứng tên và quản lý. B biết 04 đối tượng là bạn nghiện của mình bị nghiện ma tuý nhưng B vẫn đồng ý (ý thức chủ quan) để họ trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ. Hành vi này của B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 như sau: “b) Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu. chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy....”. Tuy nhiên tại Điều 3 Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 đã bãi bỏ điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT. “Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30 tháng 12 năm 2015. Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3 Phần II; điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II, mục 8 Phần II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT”.
Đối chiếu theo quy định của điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì hành vi của B không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì B là người nghiện ma túy và cùng cho người khác sử dụng ma tuý tại nhà mình nên không phạm tội này. Tuy nhiên, theo Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT đã bãi bỏ hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT nhưng vẫn chưa có hướng dẫn nào thay thế hướng dẫn nên theo nguyên tắc có lợi thì hành vi của B không phạm tội “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Vì vậy, ở quan điểm này hành vi của B không phạm tội “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Quan điểm thứ hai đây cũng là quan điểm của các tác giả cho rằng: Hành vi nêu trên của B đã phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Theo phân tích ở quan điểm thứ nhất ta thấy về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, chủ quan của B thì đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Tuy theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì hành vi của B không phạm “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” vì B nghiện ma tuý và cùng cho người khác sử dụng tại nhà mình. Qua thực tiễn xử lý các tội về ma tuý, đặc biệt là tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy thì quy định tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT là một bất cập, quy định như vậy rất khó có thể xử lý hình sự các đối tượng tổ chức, chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy vì hầu hết trong số này là người nghiện. Sau khi bị bắt lại được thả khiến các cá nhân vi phạm coi thường pháp luật, dễ tái phạm. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây gia tăng người nghiện ma túy tổng hợp và xuất hiện ngày càng nhiều các trường hợp “ngáo đá”.
Từ thực tiễn trên nên tại Điều 3 Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT đã bãi bỏ điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT. Do đó trong trường hợp của B ta chỉ cần đối chiếu với hành vi của B với Điều 256 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Do vậy, hành vi của B đã thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, không có văn bản nào hướng dẫn loại trừ trách nhiệm hình sự của B.
Từ những phân tích, lập luận nêu trên, quan điểm của chúng tôi cho rằng hành vi của B đã phạm vào “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm d khoản 2 Điều 256 BLHS 2015.
Xin được trao đổi và mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc./.
NGUYỄN PHI HÙNG
Toà án Quân sự Quân khu 4
TP. HCM triển khai tổ chức tiêm vaccine Covid-19 mũi 4 cho người dân
6. Góp ý dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: Cần nâng cao hiệu quả ở vùng đồng bào dân tộc thiếu số
(LSVN) – Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống bạo lực gia đình ở vùng đồng bào dân tộc thiếu số, tác giả đưa ra một số ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình ở địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiếu số
Sau gần 15 năm thực hiện, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức trong phòng, chống bạo lực gia đình, góp phần bảo vệ người bị bạo lực gia đình, xử lý các hành vi bạo lực gia đình, vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình, nâng cao bình đẳng giới trong gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, bạo lực gia đình vẫn còn là một vấn đề nhức nhối, nan giải ở Việt Nam, nhất là tình trạng bạo lực gia đình tại địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình ở đây chủ yếu là do lạm dụng rượu, bia; cờ bạc, nghiện ma túy; trình độ dân trí thấp; thiếu hiểu biết pháp luật… Với đàn ông là người dân tộc, nhiều người có các hành vi bạo lực xuất phát từ thói quen uống rượu hàng ngày; khi rượu vào không kiềm chế được bản thân nên đã dẫn đến các hành vi bạo lực. Bên cạnh đó, nhiều bản làng vùng sâu, vùng xa vẫn chịu ảnh hưởng bởi các phong tục lạc hậu, trọng nam kinh nữ, nhận thức người dân thấp; gia đình thường đông con, kéo theo đó là đời sống kinh tế gia đình rất khó khăn…
Bên cạnh đó, do một số tập tục văn hóa ở địa phương miền núi, người phụ nữ dân tộc thiểu số phải mang gánh nặng công việc gia đình kể cả trong lao động sản xuất và làm việc nhà. Người phụ nữ dân tộc thiểu số dường như không có thời gian để nghỉ ngơi, chăm sóc cho bản thân, giao tiếp xã hội và tham gia các hoạt động cộng đồng hoặc ít tham gia vào các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội ở địa phương. Khi họ là nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình thì thường cam chịu, chưa biết cách tự bảo vệ bản thân mình. Công tác phòng, chống bạo lực của chính quyền cơ sở ở địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế; cán bộ thực hiện nhiệm vụ này còn thiếu và yếu; công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa thường xuyên; việc xử lý các hành vi vi phạm chưa kịp thời, thiếu nghiêm minh.
Ngoài ra, thời gian qua, xuất hiện những hành vi bạo lực gia đình có mức độ gây hại nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, tinh vi, khó lường và khó xử lý bằng các quy định pháp luật hiện hành. Bạo lực gia đình cũng được xem là một trong những tác nhân chính làm tan vỡ hôn nhân, hạnh phúc gia đình, thậm chí gây thương vong cho người bị bạo lực gia đình. Vấn nạn bạo lực gia đình có xu hướng trầm trọng, đa dạng, phức tạp hơn đã và đang để lại những hậu quả thương tâm, đau xót cho nhiều gia đình, tạo ra những thiệt hại to lớn cho toàn xã hội. Nếu không được giải quyết kịp thời, bạo lực gia đình sẽ đe doạ đến sự phát triển bền vững của gia đình, làm xói mòn các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm suy yếu động lực phát triển và là rào cản đối với tiến trình phát triển bền vững của đất nước.
Chính vì vậy, việc xây dựng Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi) là hết sức cần thiết nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; giải quyết những bất cập trong thực tiễn thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; bảo đảm phù hợp với các Điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia và bài học kinh nghiệm quốc tế. Đặc biệt, góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn và đẩy lùi các hành vi bạo lực gia đình ở địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Một số ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống bạo lực gia đình ở vùng đồng bào dân tộc thiếu số, tác giả đưa ra một số ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, cụ thể:
Thứ nhất, đề nghị bổ sung điểm đ, khoản 1 Điều 5, cụ thể như sau:
"đ) Người bị bạo lực gia đình phải được bảo vệ, hỗ trợ kịp thời, ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị bạo lực gia đình là phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người mắc bệnh hiểm nghèo; người đồng bào dân tộc thiếu số".
Lý do người đồng bào dân tộc thiểu số cần phải được ưu tiên bảo về quyền và lợi ích hợp pháp khi bị bạo lực gia đình.
Đồng thời, bổ sung khoản 1 Điều 7 dự thảo luật cụ thể như sau:
"1. Nhà nước ưu tiên nguồn lực để thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống bạo lực gia đình từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt nguồn lực để thực hiện các hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng dân cư và ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa".
Thứ hai, bổ sung khoản 2 Điều 10 về nghĩa vụ của thành viên trong gia đình: "Đề nghị cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền xử lý về bạo lực trong gia đình để kịp thời ngăn chặn, xử lý vụ việc bạo lực gia đình" nhằm xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của thành viên trong gia đình trong việc ngăn chặn chặn các hành vi bạo lực gia đình.
Thứ ba, khoản 4 Điều 23 quy định về góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư: "4. Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tạo điều kiện cho Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực gia đình". Đề nghị bổ sung nội dung này như sau: "4. Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm hướng dẫn, tạo điều kiện và hỗ trợ cho Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực gia đình". Có như vậy, mới đảm bảo tính khả thi của quy định, UBND xã không chỉ tạo điều kiện mà còn hướng dẫn về mặt nội dung, hỗ trợ kính phí, đảm bảo an ninh trật tự,…và các điều kiện thiết khác để Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố thực hiện việc này.
Thứ tư, khoản 1 Điều 27 dự thảo luật quy định: "1. Mọi cá nhân khi phát hiện dấu hiệu bạo lực gia đình có khả năng báo tin phải thực hiện báo tin, tố giác bạo lực gia đình đến một trong các địa chỉ quy định tại khoản 2 Điều này."
Đề nghị sửa đổi cụm từ "có khả năng báo tin", đây cụm từ mang tính tùy nghi, cá nhân có thể thực hiện hoặc không thực hiện, tùy vào khả năng, nên không thể nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi cá nhân trong việc báo tin về hành vi bạo lực gia đình. Vì vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung nội dung này như sau: "1. Mọi cá nhân khi phát hiện dấu hiệu bạo lực gia đình có trách nhiệm thực hiện báo tin, tố giác bạo lực gia đình đến một trong các địa chỉ quy định tại khoản 2 Điều này".
Thứ năm, khoản 1 Điều 31 quy định: "1. Người có mặt tại nơi xảy ra vụ việc bạo lực gia đình, tùy theo khả năng của mình có trách nhiệm yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình".
Đề nghị sửa đổi bổ sung nội dung này như sau: "1. Người có mặt tại nơi xảy ra vụ việc bạo lực gia đình, tùy theo khả năng của mình có trách nhiệm yêu cầu hoặc áp dụng các biện pháp cần thiết được pháp luật cho phép để ngăn chặn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình".
Mục đích quy định này là để ngăn chặn tức thì đối với hành vi dùng vũ lực giữa các thành viên trong gia đình với nhau.
ĐỖ VĂN NHÂN
Một số ý kiến đối với dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi)
7. Điều kiện sản xuất thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất đáng chú ý tại dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư về quản lý thuốc thú y của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Dự thảo đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2020/TT-BNNPTNT về quản lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; kê đơn, đơn thuốc thú y; sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 18/2018/TT-BNNPTNT và Thông tư số 13/2016/TT-BNNPTNT về quản lý thuốc thú y.
Theo dự thảo, việc sản xuất trong nước các loại thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất chỉ được thực hiện tại cơ sở có Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thuốc thú y còn hiệu lực do Cục Thú y cấp.
Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất cùng trên dây chuyền sản xuất thuốc thú y đã được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thực hiện theo quy định tại Điểm c khoản 2 Điều 16 Nghị định số 105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 của Chính phủ.
Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất đối với trường hợp giấy chứng nhận bị mất, sai sót, hư hỏng hoặc có thay đổi về thông tin của cơ quan, tổ chức thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 của Chính phủ.
Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất đối với trường hợp có thay đổi về quy mô, địa điểm, chủng loại sản xuất thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 16 Nghị định số 105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 của Chính phủ.
VĂN QUANG
Xem xét tính mức lương tối thiểu giờ có cộng thêm hệ số bổ sung
8. Chế độ trợ cấp một lần đối với cán bộ, chiến sĩ CAND tham gia kháng chiến chống Mỹ
(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất đáng chú ý tại dự thảo Thông tư quy định về thực hiện chế độ trợ cấp đối với cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân (CAND) tham gia kháng chiến chống Mỹ có dưới 20 năm công tác trong CAND đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày 20/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ mà Bộ Công an đang lấy ý kiến của nhân dân.
Theo đó, cán bộ, chiến sĩ CAND tham gia kháng chiến chống Mỹ từ ngày 30/4/1975 trở về trước, có dưới 20 năm công tác trong CAND đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương thuộc các trường hợp quy định tại Điều 2 và khoản 1 Điều 8 Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg thuộc một trong các trường hợp sau, được hưởng chế độ trợ cấp một lần:
- Có dưới 15 năm công tác trong CAND;
- Có dưới 15 năm công tác trong Công an nhân dân; sau khi thôi việc, xuất ngũ về địa phương tiếp tục công tác ở xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp hàng tháng hoặc chế độ hưu trí;
- Có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác trong Công an nhân dân; sau khi thôi việc, xuất ngũ về địa phương hiện đang công tác ở xã, phường, thị trấn hưởng lương từ ngân sách nhà nước có tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành;
- Có dưới 15 năm công tác trong Công an nhân dân; sau khi thôi việc, xuất ngũ về địa phương hiện đang công tác ở xã, phường, thị trấn hưởng lương từ ngân sách nhà nước có tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Trợ cấp một lần được tính theo số năm công tác thực tế trong CAND: Từ đủ 2 năm (24 tháng) trở xuống, mức hưởng trợ cấp một lần bằng 2.500.000 đồng; từ năm thứ 3 trở đi, cứ mỗi năm mức hưởng trợ cấp một lần được cộng thêm 800.000 đồng.
Dự thảo nêu rõ đối tượng áp dụng bao gồm:
- Cán bộ, chiến sĩ CAND tham gia kháng chiến chống Mỹ từ ngày 30/4/1975 trở về trước, có dưới 20 năm công tác trong CAND đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương thuộc các trường hợp quy định tại Điều 2 và khoản 1 Điều 8 Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg;
- Các đơn vị trực thuộc Bộ, Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện chế độ đối với cán bộ, chiến sĩ CAND;
- Các trường hợp quy định tại Điều 3 Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg không thuộc đối tượng áp dụng thực hiện Thông tư này.
HỒNG HẠNH
9. Mức phạt tiền đối với hành vi bán rượu, bia tại nơi không được bán
(LSVN) - Theo quy định của pháp luật, những địa điểm nào không được bán rượu, bia và mức phạt tiền đối với hành vi bán rượu, bia tại nơi không được bán như thế nào?
Điều 19 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia 2019 quy định về địa điểm không bán rượu, bia như sau: Cơ sở y tế; Cơ sở giáo dục; Cơ sở, khu vực chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành cho người chưa đủ 18 tuổi; Cơ sở cai nghiện, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ phạm nhân và cơ sở giam giữ khác; Cơ sở bảo trợ xã hội; Nơi làm việc của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập, trừ địa điểm được phép kinh doanh rượu, bia.
Điều 31 Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi:
- Bán rượu, bia tại địa điểm không bán rượu, bia theo quy định của pháp luật;
- Mở mới điểm bán rượu, bia để tiêu dùng tại chỗ trong bán kính 100m tính từ khuôn viên của cơ sở y tế, nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông.
Ngoài ra, người thực hiện hành vi kinh doanh rượu bia trong bán kính 100m tính từ khuôn viên của cơ sở y tế, nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh rượu, bia từ 01 đến 03 tháng.
Như vậy trong trường hợp cá nhân bán rượu bia tại nơi không được bán sẽ bị phạt từ 05 đến 10 triệu đồng; mức phạt đối với tổ chức gấp 02 lần mức phạt cá nhân theo khoản 5 Điều 4 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.
HỒNG HẠNH
Đề nghị người dân ký giấy cam kết nếu không tiêm vaccine Covid-19