TRỰC THỨ 6

14/04/2022 02:22 |

(LSVN) -

CHIỀU

5. Đối tượng lập dự phòng tổn thất đầu tư chứng khoán

(LSVN) - Vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 24/2022/TT-BTC ngày 07/4/2022, sửa đổi Thông tư 48/2019/TT-BTC hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp.

Ảnh minh họa.

Trong đó, Thông tư 24/2022/TT-BTC đã sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 5 Thông tư số 48/2019/TT-BTC. Cụ thể, đối tượng lập dự phòng là các loại chứng khoán do các tổ chức kinh tế trong nước phát hành theo quy định của pháp luật, thuộc sở hữu của doanh nghiệp, đang được niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán trong nước, được tự do mua bán trên thị trường và giá chứng khoán thực tế trên thị trường tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm thấp hơn giá trị của khoản đầu tư chứng khoán đang hạch toán trên sổ kế toán.

Đối tượng lập dự phòng nêu trên không bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương. Đây là nội dung mới được bổ sung.

Ngoài ra, Thông tư 24/2022/TT-BTC cũng sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 5 Thông tư số 48/2019/TT-BTC về công thức tính mức trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/5/2022.

MAI HUỆ

Tòa án có thể xem xét, quyết định các giá trị pháp lý của hợp đồng về quyền sử dụng đất được tặng cho hay không?

4. Tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động từ 15/4

(LSVN) - Thông tư 29/2021/TT-BLĐTBXH  ngày 28/12/2021 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động. Thông tư 29/2021/TT-BLĐTBXH này sẽ chính thức có hiệu lực từ hôm nay (ngày 15/4/2022).

Ảnh minh họa.

Một trong những nội dung đáng chú ý tại Thông tư 29/2021/TT-BLĐTBXH là tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động. Theo Điều 3 Thông tư 29/2021/TT-BLĐTBXH, phân loại lao động theo điều kiện lao động. Cụ thể, loại điều kiện lao động  gồm:

- Nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm là nghề, công việc có điều kiện lao động được xếp loại V, VI.

- Nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm là nghề, công việc có điều kiện lao động được xếp loại IV.

- Nghề, công việc không nặng nhọc, không độc hại, không nguy hiểm là nghề, công việc có điều kiện lao động được xếp loại I, II, III.

Nguyên tắc phân loại lao động theo điều kiện lao động: Việc phân loại lao động theo điều kiện lao động phải dựa trên kết quả đánh giá xác định điều kiện lao động theo phương pháp quy định tại Thông tư này.

Phương pháp phân loại lao động theo điều kiện lao động ban hành kèm theo Thông tư này được sử dụng với mục đích xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoặc đưa ra khỏi Danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm (sau đây gọi tắt là Danh mục nghề). Bên cạnh đó, phân loại lao động theo điều kiện lao động đối với nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động để thực hiện các chế độ bảo hộ lao động và chăm sóc sức khoẻ đối với người lao động theo quy định tại khoản 3 Điều 22 của Luật An toàn, vệ sinh lao động.

DUY ANH

Điều kiện thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

1. Thông báo rút kinh nghiệm vụ án 'Tranh chấp quyền sử dụng đất'

(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát xét xử giảm đốc thẩm đối với Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh VL giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn B. với bị đơn là bà Võ Thị X. đã có hiệu lực pháp luật, Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm.

Ảnh minh họa.

Nội dung vụ án:

Ngày 08/02/2007, ông Nguyễn Văn B. được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện BM cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) diện tích 5.712,6m2, thuộc thửa 294, tờ bản đồ số 2, ấp TT, xã TB, huyện BM, tỉnh VL (Thửa 294), nguồn gốc nhận thừa kế từ cụ Nguyễn Văn G. Trước đây, cụ G. cho bà Võ Thị X. và vợ chồng ông Bùi Văn D., bà Châu Thị U. ở nhờ một nền nhà 400m2 và mượn 02 liếp đất vườn khoảng 1.200m2 để canh tác trên Thửa 294.

Năm 2010, khi tiến hành đo đạc theo chương trình Vlap thì bà X., ông D., bà U. tranh chấp với ông B., yêu cầu ông B. phải tách quyền sử dụng đất cho bà X., ông D., bà U., ông B. yêu cầu Tòa án buộc bà Võ Thị X., ông Bùi Văn D., bà Châu Thị U. và các con của ông D., bà U. phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng 1.600m2 đất thuộc một phần Thửa 294 để trả lại cho gia đình ông.

Bà X., ông D., bà U. không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông B. với lý do nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ Nguyễn Văn Q. (ông nội của ông Nguyễn Văn B.) bán cho cụ Cao Thị K. (bà cố của ông Bùi Văn D.) từ năm 1940, khi cụ K. qua đời thì cụ Huỳnh Thị N. (bà nội của ông D.) tiếp tục canh tác, sau đó cụ Bùi Văn A. (cha ông D.) tiếp tục canh tác. Cụ Bùi Văn A. chết thì cụ Võ Thị X. (mẹ ông D.) và ông D. tiếp tục canh tác sử dụng cho đến nay.

Theo chương trình đo Vlap năm 2010, ông B. cho rằng đã có GCNQSDĐ nên đã chặt phá những cây gia đình bà X. trồng và trồng xen cây vào trên đất tranh chấp. Phần đất tranh chấp, cụ Bùi Văn A. có kê khai đăng ký sổ mục kê thửa 1564, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.200m2 và thửa 1566 diện tích 400m2 tờ bản đồ số 2 tại ấp TT, xã TB, huyện TB (nay là huyện BM), tỉnh VL. Bà X. yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ Thửa 294 đã cấp cho ông B., công nhận quyền sử dụng thửa đất 1564 và thửa đất 1566 cho ông D.

UBND huyện BM trình bày: Thửa 294 hình thành năm 1991 gồm 03 thửa 1564, 1655, 1656. Ngày 31/3/1991, cụ Nguyễn Văn G. xin cấp quyền sử dụng Thửa 294 và được Hội đồng đăng ký đất của xã xét cấp. Ngày 01/10/1996, UBND huyện BM cấp GCNQSDĐ Thửa 294, diện tích 6.300m2 cho cụ G. Năm 2005, cụ G. để lại thừa kế cho ông B. Năm 2007, ông B. được cấp GCNQSDĐ Thửa 294 diện tích 5.712,6m2.

Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án số 40/2018/DS-ST, ngày 08/11/2018, TAND huyện BM, tỉnh VL (Bản án sơ thẩm), đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B. buộc bà X., ông D., bà U. và các con của ông D. và bà U. phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng đất chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2; chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Văn D.: Hủy một phần GCNQSDĐ thửa 294, diện tích 5,712m2, do ông B đứng tên quyền sử dụng đất. Công nhận cho ông D. các phần đất thuộc: Chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2, chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2. Công nhận phần cây trồng cho ông Bùi Văn D. được quyền sử dụng nhưng hoàn lại giá trị cây trồng cho ông Nguyễn Văn B. là 9.460.000 đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ngày 20/11/2018, ông Nguyễn Văn B. kháng cáo Bản án sơ thẩm.

Tại Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của TAND tỉnh VL (Bản án phúc thẩm), đã quyết định:

Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn B.: Sửa Bản án sơ thẩm Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B.

Công nhận ông B được quyền sử dụng phần đất chiết thửa 194-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2.

Buộc bà X., ông D., bà U. trả lại cho ông B. các phần đất thuộc chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).

Ông B. được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2. Buộc ông B có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho bà X., ông D., bà U. số tiền 7.175.000 đồng.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Bùi Văn D.

Công nhận cho bà X., ông D., bà U. được quyền sử dụng phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 (trong đó có 105,2m2 đất ở nông thôn và 45,2m2 đất trồng cây lâu năm) và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).

Buộc bà X., ông D. và bà U. có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 cho ông B. bằng số tiền 34.324.000 đồng.

Bà X., ông D., bà U. được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần đất chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2. Buộc bà X., ông D., bà U. có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho ông B. số tiền 2.325.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông B. đồng ý để ngôi mộ của ông Bùi Văn A. được tồn tại trên phần đất chiết thửa 294-3. Ông B. và các thành viên trong gia đình ông B phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để con cháu ông A. đi vào chăm sóc, viếng mộ ông A. theo phong tục tập quán.

Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ông Bùi Văn D. có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 172/2021/DS-GĐT ngày 14/5/2021 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 64/QĐKNGĐT-VKS-DS, ngày 01/02/2021 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Ông Nguyễn Văn B. cho rằng phần đất tranh chấp do cụ Nguyễn Văn G. (cha ông B.) đã cho bà X., ông D., bà U. ở nhờ nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Bà X., ông D., bà U. xác định nguồn gốc đất do gia tộc nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Văn Q. từ năm 1936 có xác nhận của Hương chức làng TQ. Đến năm 1980 cụ Bùi Văn A. là cha ông D. đã kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất. Việc sử dụng đất của gia đình bà X. là liên tục, ổn định, lâu dài, bảo đảm về việc xác lập quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Theo chứng thực lưu trữ địa chính số 379/CTLT ngày 17/3/2015 của Trung tâm công nghệ thông tin tỉnh VL và Công văn số 570/UBND-NC ngày 14/7/2017 của UBND huyện BM xác định năm 1980 cụ Bùi Văn A. (cha ông D.) có đăng ký thửa 1564 diện tích 1.200m2 và thửa đất 1566 diện tích 400m2. Còn cụ G. (cha ông B) đăng ký thửa 1565 diện tích 5.400m2. Tuy nhiên, đến năm 1991 khi thực hiện đo đạc chương trình đất thì cụ G. đăng ký kê khai tổng diện tích là 6.300m2 gồm cả 3 thửa 1564, 1565, 1566 nhập thành Thửa 264 và được cấp GCNQSĐ ngày 01/10/1996. GCNQSDĐ cấp cho ông B. không trùng khớp với hiện trạng sử dụng đất của các bên với lý do năm 1991 Thửa 264 có diện tích 6.300m2 nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 5.712,6m2 do sạt lở cặp rạch thông lưu và làm đường giao thông nông thôn.

Tại Quyết định số 65/QĐ-UBND ngày 17/01/2006 của UBND huyện BM đã hủy bỏ GCNQSDĐ cấp ngày 01/10/1996 do mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó ông B. làm thủ tục thừa kế và được cấp GCNQSDĐ ngày 08/02/2007. UBND cấp GCNQSDĐ cho cụ G. ngày 01/10/1996 (trong khi cụ G. đã chết ngày 28/6/1993) đối với toàn bộ thửa đất số 264 là không đúng đối tượng và thực tế quá trình sử dụng đất, không đúng quy định của pháp luật về đất đai.

Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B. và hủy một phần GCNQSDĐ đối với phần đất ông D., bà U., bà X. đang sử dụng tại chiết thửa 294-1; 294-2; 294-3; 294-4 thuộc một phần Thửa 294 là có căn cứ đúng quy định của pháp luật. Bản án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông B., buộc bà X., ông D., bà U. trả lại cho ông B. phần đất nêu trên là không có căn cứ, không đúng quy định pháp luật.

PV

Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm về phát hành, bán trái phiếu trái quy định

2. Tập trung triệt phá, gỡ bỏ, ngăn chặn thông tin xấu, độc

(LSVN) - Chính phủ yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông tập trung triệt phá, gỡ bỏ, ngăn chặn thông tin xấu, độc, sai sự thật, nhất là trên không gian mạng, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

Ảnh minh họa.

Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Nghị quyết số 50/NQ-CP Chính phủ vừa ban hành về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2022.

Theo đó, Chính phủ yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan, địa phương tích cực triển khai các Chiến lược quốc gia về phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số. Hướng dẫn bộ, ngành và địa phương kiện toàn bộ phận chuyên trách về công tác truyền thông.

Đồng thời, chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế chỉ đạo, tổ chức cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về các biện pháp phòng, chống dịch để người dân hiểu, đồng thuận, tạo niềm tin xã hội trong tổ chức triển khai thực hiện; khẩn trương triển khai và hoàn thành việc trang bị máy tính bảng theo Chương trình “Sóng và máy tính cho em” từ nguồn Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam.

Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao tăng cường thông tin, dành nhiều thời lượng tuyên truyền về việc hướng dẫn phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế số, thực hiện Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và Chương trình phòng, chống dịch Covid-19, góp phần tạo đồng thuận xã hội, tạo không khí tích cực, niềm tin, động lực mới thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ; kịp thời đấu tranh phản bác quan điểm, tư tưởng sai trái.

Đáng chú ý, Chính phủ yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông tập trung triệt phá, gỡ bỏ, ngăn chặn thông tin xấu, độc, sai sự thật, nhất là trên không gian mạng, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với cơ quan, địa phương tiếp tục triển khai vận hành có hiệu quả các hệ thống thông tin nền tảng Chính phủ điện tử phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; trong đó tăng cường và sớm đưa vào sử dụng các công cụ giám sát trực tuyến của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, các chỉ số đánh giá phục vụ người dân, doanh nghiệp của các bộ, cơ quan, địa phương dựa trên dữ liệu và theo thời gian thực, góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, cá thể hóa trách nhiệm, công khai, minh bạch, giảm tham nhũng, tiêu cực, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 4/2022.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng yêu cầu Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tập trung chỉ đạo để phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021-2025 của từng tập đoàn, tổng công ty do Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp làm đại diện chủ sở hữu.

Phối hợp với Bộ Công Thương, cơ quan liên quan chỉ đạo các Tập đoàn: Dầu khí Việt Nam, Điện lực Việt Nam, Than - Khoáng sản Việt Nam, đơn vị có liên quan phối hợp chặt chẽ, có các giải pháp cụ thể đẩy mạnh gia tăng nguồn cung sản lượng điện, sản lượng than, dầu, khí để đáp ứng yêu cầu cung ứng điện phục vụ sản xuất, tiêu dùng, tranh thủ thời cơ thuận lợi về giá dầu để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; rà soát các công trình, dự án nguồn điện để kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ đi vào vận hành, phát điện.

Bảo hiểm Xã hội Việt Nam chủ động nắm bắt, đánh giá những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật; phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho phù hợp với thực tiễn.

DUY ANH

Nguyên đơn và bị đơn khẳng định không yêu cầu đo đạc, định giá tài sản thì Tòa án giải quyết như thế nào?

3. Vụ ly hôn vợ chồng Trung Nguyên: Mọi con đường pháp lý đã thực sự khép lại?!

(LSVN) - Luật sư đánh giá, vụ án này đã đi đến tận cùng của các thủ tục pháp lý và việc TAND Tối cao bác kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao là thủ tục cuối cùng đối với vụ án này, trừ trường hợp có tình tiết chứng cứ mới làm thay đổi bản chất vụ án có thể xem xét theo thủ tục tái thẩm.

Vừa qua, TAND Tối cao đã bác kiến nghị của VKSND cùng cấp về việc hủy quyết định giám đốc thẩm, xét xử lại vụ ly hôn của vợ chồng ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo.

Quyết định được Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao đưa ra sau phiên họp chiều 07/4. Quan điểm cụ thể của toà chưa được công bố.

Như vậy, đây là quyết định cuối cùng theo quy trình tố tụng, khép lại vụ Tranh chấp hôn nhân gia đình giữa ông Vũ và bà Thảo kéo dài 7 năm.

Trước đó, Viện trưởng VKSND Tối cao Lê Minh Trí đã có kiến nghị về việc xem xét lại Quyết định giám đốc thẩm vụ ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ (người sáng lập Tập đoàn Trung Nguyên) và bà Lê Hoàng Diệp Thảo. Đồng thời kiến nghị đề nghị hủy các bản án, quyết định vụ "Tranh chấp hôn nhân gia đình" giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo để xét xử lại.

Dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết vụ án này đã đi đến tận cùng của các thủ tục pháp lý và việc TAND Tối cao bác kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao là thủ tục cuối cùng đối với vụ án này, trừ trường hợp có tình tiết chứng cứ mới làm thay đổi bản chất vụ án có thể xem xét theo thủ tục tái thẩm.

Theo quy định của pháp luật hiện nay thì Tòa án xét xử hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm. Nếu bản án sơ thẩm không có kháng cáo hoặc kháng nghị trong thời hạn luật định thì sẽ có hiệu lực pháp luật. Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo hoặc kháng nghị thì Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và các đương sự phải có nghĩa vụ chấp hành. Tuy nhiên trong quá trình chấp hành bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn không đồng ý với nội dung bản án thì các đương sự có quyền kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm. Viện Kiểm sát cũng có thẩm quyền kiến nghị xem xét giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Thực tế vụ trong án này, sau khi xét xử sơ thẩm và phúc thẩm TAND Tối cao không có kháng nghị nhưng căn cứ vào đơn kiến nghị của bà Thảo thì Viện trưởng VKSND Tối cao đã ra kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với vụ án này. Theo quy định của pháp luật thì sau khi có văn bản kháng nghị giám đốc thẩm thì Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao sẽ phải tiến hành xem xét nội dung văn bản kháng nghị đó theo thủ tục giám đốc thẩm. Thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán có quyền chấp nhận một phần hoặc toàn bộ kháng nghị hoặc bác toàn bộ kháng nghị. Trong vụ này, khi xem xét kháng nghị của Viện trưởng VKSNN Tối cao, Hội đồng Thẩm phán đã quyết định bác toàn bộ kháng nghị để giữ nguyên bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật, bắt buộc các đương sự phải chấp hành.

Nếu theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2003 trước đây thì thủ tục như vậy là kết thúc, sẽ không còn thủ tục nào xem xét lại quyết định giám đốc thẩm. Tuy nhiên Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định về thủ tục đặc biệt là xem xét lại cả quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao. Cụ thể, Điều 358 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau: Khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, đương sự đã không thể biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao hoặc đề nghị của Chánh án TAND Tối cao thì Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xem xét lại quyết định đó.

Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì Chánh án TAND Tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.

Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao hoặc Chánh án TAND Tối cao phát hiện vi phạm, tình tiết mới thì Chánh án TAND Tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán TAND Tối caoxem xét kiến nghị, đề nghị đó.

Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị quy định tại khoản 3 Điều này phải có sự tham dự của Viện trưởng VKSND Tối cao.

Như vậy, theo quy định này thì quyết định giám đốc thẩm trong vụ án dân sự chưa phải là quyết định cuối cùng. Nếu có căn cứ cho thấy có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật thì có thể tiến hành thủ tục đặc biệt, trong đó Viện trưởng VKSND Tối cao cũng có thẩm quyền kiến nghị hội đồng thẩm phán xem xét lại quyết định giám đốc thẩm đã ban hành trước đó.

Sau khi nhận được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội hoặc sau khi Chánh án TAND Tối cao có văn bản đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 358 của Bộ luật này, TAND Tối cao gửi cho VKSND Tối cao bản sao văn bản yêu cầu, kiến nghị hoặc đề nghị đó kèm theo hồ sơ vụ án để VKSND Tối cao nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến phát biểu tại phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị, yêu cầu. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, VKSND Tối cao phải trả lại hồ sơ vụ án cho TAND Tối cao.

Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao hoặc kể từ ngày Chánh án TAND Tối cao có văn bản đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao phải mở phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị.

TAND Tối cao thông báo bằng văn bản về thời gian mở phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị cho Viện trưởng VKSND Tối cao.

Đại diện Ủy ban Tư pháp của Quốc hội được mời tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao để xem xét kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội.

Theo Điều 360 Bộ luật Dân sự năm 2015, sau khi nghe Chánh án TAND Tối cao báo cáo, nghe ý kiến của Viện trưởng VKSND Tối cao, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan được mời tham dự (nếu có) và khi xét thấy quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định thì tùy từng trường hợp, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao quyết định như sau:

- Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án;

- Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của TAND Tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật;

- Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao biểu quyết tán thành.

Trong vụ án này, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, sau khi có kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao thì Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã họp xem xét nội dung và đã quyết định không chấp nhận kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao về việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm mà Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành trước đó để giữ nguyên bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Như vậy đây là thủ tục tố tụng cuối cùng để xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với vụ ly hôn này. Nếu không đồng ý với nội dung phán quyết này của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì tất cả các đương sự cũng như các cơ quan tổ chức có thẩm quyền cũng không còn quyền nào để yêu cầu cấp có thẩm quyền xem xét lại.

Tuy nhiên, pháp luật còn quy định thủ tục tái thẩm. Nếu có căn cứ để đề nghị xem xét tái thẩm đối với vụ án này thì cơ quan có thẩm quyền và các đương sự có quyền đề nghị xem xét. Tuy nhiên căn cứ để đề nghị tái thẩm được pháp luật quy định rất rõ ràng như sau: Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.

Điều 352. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;

2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;

3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;

4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.

Như vậy, trong trường hợp có tình tiết mới quan trọng mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án có cơ sở để chứng minh kết luận của bản án sơ thẩm và phúc thẩm là không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đường sự thì khi đó vụ án mới có thể được xem xét lại theo thủ tục tái thẩm. Còn các tình tiết chứng cứ mà các đương sự có, đã xuất trình cho Tòa án và Tòa án đã xem xét nhưng không chấp nhận thì Tòa án sẽ không xem xét lại những tình tiết chứng cứ đó. Những tình tiết chứng cứ mới phải có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án mà Tòa án trước đây chưa xem xét thì mới có cơ hội để thực hiện thủ tục tái thẩm.

"Có thể thấy rằng vụ án này đã kéo dài nhiều năm, rất phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân, quyền lợi của nhiều bên đường sự. Sau khi thụ lý đơn, Tòa án đã mất một thời gian rất dài để xem xét giải quyết và đã có kết luận trong bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Tất cả các thủ tục khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục đặc biệt đều không được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao chấp nhận. Đến nay cũng không có tài liệu chứng cứ gì mới có thể làm thay đổi bản chất vụ án nên có lẽ vụ án này sẽ dừng lại ở đây. Các bên đường sự có nghĩa vụ phải chấp hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án theo quy định của pháp luật", Luật sư Cường đánh giá.

TIẾN HƯNG

Vụ ly hôn vợ chồng Trung Nguyên: VKSND Tối cao kiến nghị tăng tỉ lệ tài sản bà Thảo được chia

SÁNG

1. Chồng có được nghỉ theo chế độ thai sản khi vợ sinh con?

(LSVN) - Vợ tôi sắp sinh, tôi đang đi làm, có đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ. Vậy theo quy định của pháp luật, tôi có được hưởng các chế độ liên quan đến thai sản và có được nghỉ chăm sóc vợ hay không? Bạn đọc N.L. hỏi.

Ảnh minh họa.

Theo quy định tại Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014, người lao động tham gia BHXH bắt buộc được hưởng chế độ thai sản nếu thuộc một trong các trường hợp: Lao động nữ mang thai; Lao động nữ sinh con; Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; Người lao động nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi; Lao động nữ đặt vòng tránh thai, triệt sản; Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

Ngoài ra người lao động cũng cần đáp ứng thêm điều kiện về thời gian tham gia để được hưởng chế độ thai sản:

- Lao động nữ sinh con, nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi hay người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh hoặc nhận nuôi con nuôi.

- Lao động nữ sinh con đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của bác sĩ thì phải đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh.

Người lao động đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên mà chấm dứt hợp đồng lao động hoặc thôi việc trước khi sinh hoặc nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ này.

Về thời gian hưởng chế độ khi vợ sinh con, lao động nam đang đóng BHXH khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau:

- 5 ngày làm việc: Trường hợp thông thường.

- 7 ngày làm việc: Vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi.

- 10 ngày làm việc: Vợ sinh đôi; từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc.

- 14 ngày làm việc: Vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.

Thời gian nghỉ việc này không tính ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hàng tuần.

Như vậy, căn cứ theo quy định trên, lao động nam cũng được hưởng các chế độ thai sản và thời gian nghỉ chế độ căn cứ theo quy định trên.

HỒNG HẠNH

Người lao động được nghỉ thế nào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương và 30/4 - 01/5?

2. Xử lý nghiêm mọi hành vi gây nhiễu loạn đất đai

(LSVN) - Có thể nói, thời gian gần đây cùng với việc đất đai "sốt", tăng giá vùn vụt thì tình trạng lừa đảo, dự án "ma", làm giấy tờ giả... cũng theo đó mà tăng lên. Đặc biệt là hành vi làm giá, "thổi giá" gây nhiễu loạn đất đai để trục lợi diễn ra khắp nơi từ thành thị đến nông thôn, miền núi. 

Vụ việc tai tiếng, "đình đám" nhất là vụ "thổi giá" khi đấu giá quyền sử dụng đất ở Thủ Thiêm, theo đó giá trúng đấu giá tăng gấp nhiều lần so giá khởi điểm và cao bất thường so với giá thực tế. Và không ngoài dự đoán của dư luận sau khi trúng đấu giá thì các doanh nghiệp đã bỏ cọc, không tiếp tục mua khu đất này.

Hành vi gây nhiễu loạn thông tin nhằm lừa đảo để trục lợi đang ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, giải phóng mặt bằng, sản xuất kinh doanh... Trong khi người dân có nhu cầu thực sự thì không thể tiếp cận, không thể mua được do "giá ảo" quá cao so với giá trị thực tế. Hành vi này còn gây mất trật tự an toàn xã hội, rối loạn thị trường nhà đất, đe dọa sự an toàn của hệ thống tín dụng, tạo ra "bong bóng" bất động sản...

Do đầu tư đất đai, bất động sản mang lại lợi nhuận đặc biệt lớn, làm giàu nhanh nên nhiều đối tượng đã bất chấp quy định pháp luật, đạo đức nghề nghiệp trong kinh doanh để trục lợi. Hậu quả tiêu cực mà các đối tượng gây ra cho thị trường nhà đất là rất lớn. Bởi không những ảnh hưởng đến hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước mà gây nhiễu loạn thị trường rất nghiêm trọng, xáo trộn quy luật giá cả về nhà đất cuối cùng người hưởng lợi là "cò đất", những nhà đầu tư.

Mục đích của các đối tượng làm nhiễu loạn thị trường là để trục lợi. Ví dụ, vụ việc đấu giá đất ở Thủ Thiêm các đối tượng cố tình đẩy giá lên cao ngất ngưỡng rồi bỏ cọc, làm cho thị trường bất động sản khu vực này, thậm chí cả phạm vi TP.Hồ Chí Minh bị chao đảo, nhiễu loạn. Trường hợp này không loại trừ khả năng những đối tượng đấu giá cao rồi bỏ cọc vừa qua đã mua hết những mảnh đất xung quanh đó nên cố tình đẩy mặt bằng giá lên cao để trục lợi các dự án mà họ đang thực hiện quanh đó.

Vì vậy, các cơ quan chức năng cần có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, quyết liệt, mạnh mẽ. Theo đó, cần ngăn chặn từ gốc các hành vi vi phạm, có biện pháp ngăn chặn ngay khi có dấu hiệu mà không chờ hậu quả xảy ra rồi mới vào cuộc xử lý. Thậm chí, điều tra, xử lý cả những đối tượng có hành vi đăng tải tin tức quảng cáo sai sự thật, cố tình "thổi giá" ảo chứ không chỉ những người trực tiếp tham gia đấu giá.

Có như vậy, mới xử lý triệt để, dứt điểm chứ không chỉ xử lý phần ngọn, xử lý tình huống như một số trường hợp vừa qua. Bởi khí hậu quả đã xảy ra thì vừa tốn kém thời gian công sức của cơ quan chức năng và thực tế đã gây ra thiệt hại lớn cho công dân, tổ chức cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội./.

Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Hạn chế tối đa việc giao cho bộ, ngành hướng dẫn luật

3. Hoàn thiện quy định về tội ‘Cưỡng bức lao động’ theo Điều 297 Bộ luật Hình sự 2015

(LSVN) - Hành vi “cưỡng bức lao động” tùy tính chất, mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này là phù hợp, tuy nhiên quy định hiện hành về tội “Cưỡng bức lao động” tại Điều 297 Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần được sửa đổi, bổ sung. Qua đó, hoàn thiện pháp luật Việt Nam theo hướng vừa phù hợp với luật pháp quốc tế, vừa bảo đảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.

Việt Nam là quốc gia đã phê chuẩn Công ước số 29 năm 1930 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về cưỡng bức lao động hoặc bắt buộc (sau đây gọi tắt là Công ước số 29). Kể từ đó, pháp luật Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể nhằm nội luật hóa Công ước này. Theo Bộ luật Lao động (BLLĐ) 2019, cưỡng bức lao động là hành vi bị cấm. Hành vi này tùy từng tính chất, mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy, pháp luật Việt Nam về vấn đề này vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó, quy định tại Điều 297 BLHS 2015 về tội “Cưỡng bức lao động” là một điển hình.

1. Tội “Cưỡng bức lao động” theo Điều 297 BLHS 2015

Theo đó, “người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc người khác phải lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị…”. Như vậy, có thể hiểu cưỡng bức lao động bao gồm ba dạng hành vi là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực và thủ đoạn khác của bất kỳ “người nào” nhằm mục đích ép buộc “người khác” phải lao động. Tuy nhiên, những hành vi trên cấu thành tội Cưỡng bức lao động khi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1,2,3 Điều 297 BLHS 2015.

Về hình phạt, điều luật quy định 3 khung hình phạt, trong đó mức thấp nhất là phạt tiền (50-200 triệu đồng), mức cao nhất là phạt tù đến 12 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30-100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm.

2. Một số bất cập

Thứ nhất, quy định về “cưỡng bức lao động” chưa chi tiết và chưa phù hợp với Công ước 29

Khoản 1 Điều 2 Công ước số 29 xác định: “Lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc” là chỉ mọi công việc hoặc dịch vụ mà một người bị ép buộc phải làm dưới sự đe dọa của một hình phạt nào đó và bản thân người đó không tự nguyện làm. Như vậy, Công ước 29 sử dụng thuật ngữ “lao động cưỡng bức” và định nghĩa nó dưới dạng công việc, dịch vụ mà người bị ép buộc phải làm. Tuy nhiên, BLLĐ 2019 và Điều 297 BLHS 2015 thì sử dụng thuật ngữ “cưỡng bức lao động” và tiếp cận nó dưới góc độ là hành vi nhằm ép buộc người khác phải thực hiện công việc. Điều này vẫn đến sự không thống nhất, và khi xét về phạm vi phòng, chống cưỡng bức trong lao động thì pháp luật Việt Nam có phần hạn chế hơn so với Công ước 29.

Đồng thời, Điều 297 BLHS 2015 ghi nhận 03 dấu hiệu hành vi khách quan là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực và thủ đoạn khác. Đối với dấu hiệu dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực, đây là dấu hiệu đã xuất hiện ở một số tội phạm khác, bản thân các dấu hiệu này cũng đã được đưa ra phân tích nhiều, về cơ bản đã khá rõ ràng. Đối với dấu hiệu “thủ đoạn khác”, mặc dù cũng xuất hiện ở các tội phạm khác nhưng dấu hiệu này khi xuất hiện ở mỗi tội phạm khác nhau sẽ có nội hàm khác nhau. Đồng thời, hiện nay dấu hiệu thủ đoạn khác trong tội Cưỡng bức lao động cũng chưa có hướng dẫn chi tiết, cụ thể nên còn gây khó khăn trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Hiện nay, hầu hết chúng ta thừa nhận và áp dụng các dấu hiệu được đưa ra trong ấn phẩm “Các dấu hiệu nhận biết lao động cưỡng bức” trong Chương trình hành động đặc biệt phòng, chống lao động cưỡng bức như: lạm dụng tình trạng khó khăn của người lao động, lừa gạt, hạn chế đi lại, cô lập, dọa nạt, đe dọa, giữ giấy tờ tùy thân, giữ tiền lương, lệ thuộc, làm thêm giờ quá quy định, lạm dụng điều kiện sống và việc làm… Điều này là phù hợp, nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể nên trong thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều bất cập.

Thứ hai, quy định giữa BLLĐ 2019 và BLHS 2015 còn chưa thống nhất

Khoản 7 Điều 3 BLLĐ 2019 quy định về cưỡng bức lao động có đề cập rằng “ép buộc người lao động phải làm việc trái ý muốn của họ”. Mặc dù chỉ đề cập một vế mà thiếu đi vế chủ thể của hành vi này, nhưng khi đặt trong mối tương quan giữa người lao động với người sử dụng lao động thì có thể thấy BLLĐ 2019 hướng đến chủ thể của hành vi cưỡng bức lao động là người sử dụng lao động. Quy định này chưa hợp lý và chưa thống nhất với BLHS 2015. Theo BLHS 2015, chủ thể của hành vi cưỡng bức lao động là “người nào”, tức là không nhất thiết phải là người sử dụng lao động. Đồng thời, chủ thể bị cưỡng bức cũng được nhắc đến với thuật ngữ “người khác phải lao động” chứ không phải “người lao động”. Tuy nhiên, liệu giữa những người khác nhau (không có mối quan hệ lao động) có tồn tại hành vi cưỡng bức lao động hay không? Rõ ràng là không bởi bản thân “cưỡng bức lao động” đã ẩn chứa quan hệ lao động ở trong đó. Việc không đề cập cụ thể “người sử dụng lao động” mà quy định “người khác” chỉ có ý nghĩa khi người sử dụng lao động không trực tiếp tham gia mà có thể do người khác đại diện hoặc người lao động khác thực hiện.

Thứ ba, quy định dấu hiệu hậu quả của hành vi là cơ sở truy cứu trách nhiệm chưa đầy đủ, chưa phù hợp

Điều 297 BLHS 2015 quy định hành vi cưỡng bức lao động phải thuộc một trong các trường hợp nhất định mới là tội phạm, các trường hợp đó là:

- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

- Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của ít nhất 01 người đạt tỷ lệ tổn thương cơ thể tối thiểu theo quy định.

- Có tổ chức.

- Làm chết người.

- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng.

- Tái phạm nguy hiểm.

Đối với với dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm này, có thể thấy đối với những “thủ đoạn khác” như giữ tiền lương, giữ giấy tờ, hạn chế đi lại… sẽ không thể dẫn đến những hậu quả về gây thương tích, tổn thương cơ thể hay chết người. Các thủ đoạn này chỉ cấu thành tội nếu đã bị xử phạt, đã bị kết án, tái phạm nguy hiểm, có tổ chức hoặc diễn ra đối với một số chủ thể nhất định. Quy định như vậy là chưa hợp lý bởi những thủ đoạn đó mặc dù không gây ra những thương tích, tổn thương cơ thể nhưng lại tác động trực tiếp đến tâm lý, tinh thần và đời sống của người bị cưỡng bức.

Do đó, tác giả cho rằng cần quy định hậu quả của hành vi cưỡng bức lao động theo hướng kết hợp những hậu quả vật chất (tính mạng, sức khỏe, tiền bạc, vật chất) và hậu quả về tinh thần (mức độ ảnh hưởng, hoảng loạn, di chứng…) thì mới bảo đảm xử lý nghiêm minh đối với hành vi này.

Thứ tư, quy định mức hình phạt chưa hợp lý

Theo đó, mức hình phạt thấp nhất đối với tội Cưỡng bức lao động là phạt tiền 50.000.000 đồng. Tác giả cho rằng quy định mức hình phạt này là thấp, không bảo đảm sức răn đe, hiệu quả phòng, ngừa tội phạm. Theo khoản 3 Điều 10 Nghị định 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ thì hành vi cưỡng bức lao động bị xử phạt hành chính từ 50-75 triệu đồng. Như vậy, mức thấp nhất của chế tài hành chính bằng mức thấp nhất của chế tài hình sự, trong khi đó, hành vi bị xử phạt hành chính là hành vi “chưa đến mức” truy cứu trách nhiệm hình sự. Thậm chí hành vi cưỡng bức chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự có thể bị xử phạt đến 75 triệu đồng, trong khi hành vi đã đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị phạt 50 triệu đồng. Điều này là bất hợp lý mặc dù biết rõ quá trình xem xét quyết định hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Do đó, cần tăng mức hình phạt đối với tội phạm này.

Đồng thời, hành vi dùng vũ lực để cưỡng bức lao động và hành vi cố ý gây thương tích đều có chung hậu quả, tính chất (khác nhau về mục đích). Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để cưỡng bức lao động cũng tương tự hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để cướp tài sản. Như phân tích ở trên, hậu quả của hành vi dùng vũ lực đã làm tổn hại đến sức khỏe của một cá nhân và mức độ nguy hiểm của hành vi để xác định trách nhiệm hình sự cũng phụ thuộc vào tỷ lệ tổn thương của cơ thể nhưng hai tội phạm đó lại có khung hình phạt cao hơn hẳn so với tội cưỡng bức lao động. Trong khi đó, trong quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, người lao động vẫn là nhóm người yếu thế nên hành vi cưỡng bức thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe, danh dự… người lao động, do đó, cần phải xử lý nghiêm.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, cần sửa đổi pháp luật hiện hành theo hướng thống nhất với Công ước 29 để bảo đảm tính toàn diện, phạm vi tác động rộng, bao quát. Đồng thời, hướng dẫn chi tiết các dấu hiệu khách quan của hành vi cưỡng bức lao động, trong đó tập trung vào các “thủ đoạn khác”, cụ thể:

Lừa gạt: Là tình trạng không thực hiện những gì đã hứa, bằng lời nói hoặc trên giấy tờ, với người lao động[1]. 

Hạn chế đi lại hay bị cô lập: Bản thân người lao động bị cưỡng bức lao động có thể bị giám sát hoặc bị nhốt để phòng tránh sự bỏ trốn của họ. Những nạn nhân của lao động cưỡng bức thường bị cô lập ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Người lao động có thể không biết họ đang ở đâu, nơi làm việc có thể cách rất xa khu dân cư và có thể không sẵn có bất kỳ phương tiện giao thông nào[2].

Giữ giấy tờ tùy thân: Việc người sử dụng lao động giữ giấy tờ tùy thân hoặc các tài sản cá nhân có giá trị cũng là một dấu hiệu của lao động cưỡng bức nếu người lao động không thể tiếp cận được những tài sản này khi có yêu cầu; đồng thời, người lao động nhận thấy họ không thể rời khỏi nơi làm việc vì tài sản đó có thể bị mất mát. Việc không có giấy tờ tùy thân sẽ cản trở người lao động trong việc tìm kiếm được một việc làm khác hoặc tiếp cận những dịch vụ cần thiết và họ cũng không thể (hoặc không dám) nhờ sự can thiệp của cơ quan nhà nước[3].

Giữ tiền lương: Là hành vi mà người sử dụng lao động giữ tiền lương của người lao động một cách có chủ ý như là một biện pháp nhằm buộc người lao động phải tiếp tục làm việc và từ chối người lao động có cơ hội chuyển sang làm cho một người sử dụng lao động khác, điều này dẫn đến lao động cưỡng bức[4].

Thứ hai, cần có các văn bản hướng dẫn về cưỡng bức lao động, trong đó xác định chủ thể thực hiện hành vi cưỡng bức lao động để làm căn cứ, cơ sở cho việc đánh giá và xem xét. Theo đó, cần sửa BLLĐ 2019 về khái niệm cưỡng bức lao động và hướng dẫn BLHS 2015 theo hướng chủ thể của hành vi cưỡng bức có thể là bất cứ người nào có liên quan trong quá trình thực hiện quan hệ lao động.

Thứ ba, bổ sung các dấu hiệu định khung theo hướng kết hợp hậu quả, không chỉ dừng lại ở thiệt hại về tính mạng, sức khỏe mà có cả thiệt hại về tài sản, tinh thần để có cơ sở xử lý đối với những “thủ đoạn khác” thuộc dấu hiệu khách quan. Từ đó có cơ chế xử lý toàn diện, nghiêm minh các hành vi cưỡng bức lao động, đánh giá đúng tính nguy hiểm của hành vi này để bảo vệ người lao động, thực hiện mục tiêu xóa bỏ cưỡng bức lao động.

Thứ tư, tăng chế tài đối với tội Cưỡng bức lao động. Theo đó, đối với khung hình phạt quy định tại khoản 1 cần tăng mức phạt tiền (tối thiểu có thể khoảng 100 triệu đồng, tối đa 300 triệu đồng). Chuyển điểm b, c khoản 1 sang khung hình phạt tại khoản 2; chuyển khoản c, d, đ khoản 2 sang khoản 3 với khung hình phạt từ 5-10 năm tù giam; chuyển điểm a, b khoản 3 sang khoản 4 với khung hình phạt từ 7-15 năm./.

[1], [2], [3] và [4]: Theo Ấn phẩm “Các dấu hiệu nhận biết lao động cưỡng bức” trong Chương trình hành động đặc biệt phòng, chống lao động cưỡng bức, https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-bangkok/---ilo-hanoi/documents/publication/wcms_243517.pdf.

VĂN LINH

Tòa án Quân sự Khu vực Hải quân

Một số vấn đề về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

SÁNG SỚM

1. Đưa thông tin sai sự thật lên mạng xã hội: Cẩn trọng về trách nhiệm hình sự

(LSVN) - Đấu tranh với những thông tin sai sự thật, tiêu cực trên không gian mạng thể hiện sự công bằng, thượng tôn pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Bất cứ tổ chức, cá nhân nào thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội hoặc trong không gian mạng gây tổn hại đến các quan hệ xã hội thì đều bị xử lý trước pháp luật. 

Ảnh minh họa.

Pháp luật Việt Nam ghi nhận vào đảm bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo và các quyền tự do khác theo quy định của pháp luật. Theo đó mọi công dân đều có quyền bày tỏ quan điểm thái độ của mình về các vấn đề xã hội, có quyền đánh giá bình luận về một sự kiện. Việc bày tỏ quan điểm thái độ có thể được thực hiện trực tiếp trong đời sống xã hội hoặc bày tỏ trên mạng xã hội.

Tuy nhiên việc bày tỏ quan điểm thái độ của mình về các vấn đề xã hội không được quy chụp, suy diễn, đưa ra những thông tin sai sự thật, thiếu căn cứ, kết tội người khác. Hay hành vi loan tin bịa chuyện những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác, xâm phạm đến lợi ích của tổ chức, cá nhân là hành vi vi phạm pháp luật. 

Theo Điều 8 Luật An ninh mạng đã quy định các hành vi bị cấm trên không gian mạng, trong đó có cấm hành vi "Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác...". Tùy vào tính chất mức độ của hành vi vi phạm, tùy thuộc vào hậu quả xảy ra mà người đưa tin sai sự thật trên không gian mạng có thể bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ, đưa tin sai sự thật gây ra những tác động tiêu cực trong đời sống xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, của nhà nước hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của tổ chức, cá nhân thì đây là hành vi vi phạm pháp luật có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự về tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân”.

Vừa qua, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an về việc triển khai đấu tranh, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp hoạt động ổn định, lành mạnh, minh bạch, an toàn và phát triển bền vững, nhất là các hành vi đưa tin thất thiệt, không chính xác gây mất an ninh, an toàn thị trường. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã bắt khẩn cấp ông Đặng Như Quỳnh (sinh năm 1980, trú tại khu đô thị Greenbay, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) để điều tra về tội "Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của tổ chức, cá nhân". Qua điều tra, xác minh, các đơn vị nghiệp vụ của Bộ Công an phát hiện Đặng Như Quỳnh có hành vi sử dụng mạng xã hội đăng tải các bài viết, thông tin chưa được kiểm chứng về một số cá nhân, doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, bất động sản, trực tiếp xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nêu trên, có dấu hiệu tác động ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tài chính, chứng khoán của Nhà nước.

Đây không phải là lần đầu tiên người sử dụng mạng xã hội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này. Điều đáng chú ý là người vi phạm về tội danh này không chỉ có những phần tử bất mãn, chống đối chính quyền mà cả những người có trình độ học thức, có địa vị xã hội, có hiểu biết xã hội nhưng vì muốn nổi tiếng, muốn thể hiện cái tôi cá nhân, muốn khoe tài, khoe chữ nhưng coi thường pháp luật, coi thường danh dự nhân phẩm của người khác, coi thường lợi ích của người khác nên đã bị xử lý bằng chế tài hình sự.

Những vụ án xử lý các giang hồ mạng, các facebooker, những người có lượng người theo dõi lớn trên mạng xã hội trong thời gian qua bằng chế tài hình sự cho thấy sự quyết tâm của Đảng và nhà nước ta trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm công nghệ cao. Việc đấu tranh với tội phạm công nghệ cao trong bối cảnh hiện nay là cần thiết để đảm bảo an ninh, an toàn mạng, đảm bảo môi trường mạng được trong sạch, lành mạnh, là môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế văn hóa xã hội có điều kiện phát triển.

Đấu tranh với những thông tin sai sự thật, tiêu cực trên không gian mạng còn thể hiện sự công bằng, thượng tôn pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Bất cứ tổ chức, cá nhân nào thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội hoặc trong không gian mạng gây tổn hại đến các quan hệ xã hội thì đều bị xử lý trước pháp luật. Việc xử lý đối với những hành vi này tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của nhà nước, của tổ chức, cá nhân theo quy định pháp luật.

Tiến sĩ, Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG

Trưởng Văn phòng luật sư Chính Pháp

Kỷ luật đảng: Bước đầu của quy trình xử lý vi phạm đối với cán bộ?

5. 

Admin