TRỰC THỨ 7
1. Những khó khăn, vướng mắc về biện pháp ngăn chặn ‘bảo lĩnh’
(LSVN) - Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 đã được áp dụng, thi hành một thời gian, phát huy được nhiều ưu điểm, tạo ra hành lang pháp lý cơ bản, thống nhất để các Cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng Biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” trên thực vẫn còn có một số khó khăn, vướng mắc.
![]()
Ảnh minh họa.
1. Một số khó khăn, vướng mắc.
Về quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam”. Quy định này chưa rõ ràng về đối tượng bị áp dụng, tồn tại hai cách hiểu khác nhau.
Thứ nhất, “bảo lĩnh” là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam nếu có đủ điều kiện cho “bảo lĩnh” và xét thấy không cầm thiết tiếp tục tạm giữ, tạm giam thì áp dụng biện pháp “bảo lĩnh” để thay thế biện pháp tạm giam. Nghĩa là đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam thì mới áp dụng biện pháp này.
Thứ hai, biện pháp “bảo lĩnh” được áp dụng kể cả đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam và bị can, bị cáo bị khởi tố, chưa bị tạm giữ, tạm giam, nhưng thấy vẫn cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền.
Theo Điều 121 BLTTHS, cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ (ít nhất phải có hai người). Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức của mình. Vấn đề là luật quy định còn chung chung về tiêu chuẩn của người nhận bảo lĩnh (có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật) và không quy định tiêu chuẩn của cơ quan, tổ chức (hay tự hiểu rằng mọi cơ quan, tổ chức đều được nhận bảo lĩnh). Trong khi đó, không phải cơ quan, tổ chức nào cũng đủ tư cách cam đoan rằng bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội, bảo đảm bị can, bị cáo có mặt theo triệu tập của cơ quan tố tụng (đối với tổ chức là doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, nợ nần, có hành vi vi phạm pháp luật hoặc đang bị điều tra, truy tố, xét xử thì như thế nào?). Như vậy, không phải cơ quan, tổ chức nào cũng có đủ những tiêu chuẩn để được nhận bảo lĩnh.
Tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS quy định về điều kiện của người nhận bảo lĩnh là “cá nhân có thu nhập ổn định”. Luật quy định nhằm mục đích cụ thể hóa tiêu chuẩn, điều kiện người nhận bảo lĩnh. Tuy nhiên, có cần phải chứng minh thu nhập, xác minh tài liệu chứng minh thu nhập hay không thì luật không quy định và chưa có hướng dẫn.
Hiện nay chỉ có quy định tại Điều 109 BLTTHS (kèm theo Điều 121 BLTTHS) nêu những căn cứ để áp dụng chung cho các BPNC trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Điều này dễ dẫn đến sự tùy tiện khi áp dụng, không đảm bảo quyền của người bị buộc tội, làm giảm hiệu quả cũng như tính nghiêm minh của pháp luật. Bởi lẽ, Điều 109 BLTTHS quy định “… để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử…”. Nghĩa là, không phải trường hợp nào cũng áp dụng BPNC với quy định như hiện nay. Chính vì thế đối với những vụ án nhận thấy không cần thiết phải áp dụng BPNC thì không áp dụng. Qua khảo sát của bản thân nhận thấy hầu như tất cả các vụ án khi đã khởi tố bị can đều bị áp dụng BPNC, kể cả biện pháp “bảo lĩnh”.
Trong thực tiễn áp dụng, sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra (CQĐT) ra quyết định bảo lĩnh và tống đạt cho bị can, đồng thời gửi đến các cá nhân, tổ chức liên quan. Qua điều tra, CQĐT có kết luận điều tra vụ án, hồ sơ được chuyển đến Viện kiểm sát (VKS) để truy tố, chuyển hồ sơ xét xử. Vấn đề đặt ra ở đây là quyết định “bảo lĩnh” của CQĐT vẫn còn thời hạn; bị can không vi phạm thì VKS và Toà án có đương nhiên tiếp tục sử dụng Quyết định bảo lĩnh đối với bị can đó không? Hay ở mỗi giai đoạn lại phải ra lệnh, quyết định khác vì mỗi cơ quan đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Quyết định của CQĐT còn có hiệu lực hay không? Bởi vì cơ quan điều tra áp dụng BPNC đối với bị can trên cơ sở thủ tục bảo lĩnh và phải có mặt đúng thời gian, địa điểm theo giấy triệu tập của CQĐT.
Mặc dù BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể thẩm quyền áp dụng BPNC, tuy nhiên trong thực tiễn thì việc áp dụng vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam, theo đó Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp đều có thẩm quyền quy định tại điều này. Tuy nhiên, quy định về thẩm quyền của Chánh án, Phó Chánh án tại điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS năm 2015 như sau: “Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật chứng”. Như vậy, ngoài biện pháp ngăn chặn tạm giam, luật không quy định Chánh án, Phó Chánh án có thẩm quyền áp dụng các BPNC khác không?
Xung quanh vấn đề này tồn tại hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Quy định “những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của BLTTHS là người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này”, thì Chánh án là người có thẩm quyền áp dụng các BPNC tại Điều 121 BLTTHS và sau khi thụ lý hồ sơ, trường hợp Chánh án là chủ tọa phiên tòa hoặc chưa phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thì thẩm quyền này đương nhiên phải do Chánh án quyết định.
Quan điểm thứ hai: Chánh án không có thẩm quyền áp dụng BPNC tại Điều 121 BLTTHS vì theo điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS chỉ quy định Chánh án có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Mặt khác quy định tại khoản 1 Điều 278 BLTTHS về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC, biện pháp cưỡng chế xác định “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”.
- Về thời hạn: “...Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của BLTTHS. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”. Quy định về các biện pháp tạm giữ, tạm giam đều có văn bản hướng dẫn về thời hạn, tùy thuộc vào tính chất của tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Còn đối với BPNC “bảo lĩnh” thì quy định còn chung chung, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về thời hạn áp dụng. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự dài hay ngắn tùy thuộc vào tính chất, mức độ phức tạp của từng vụ án. Trong thực tiễn rất nhiều vụ án gia hạn thời hạn giải quyết. Do vậy, thời hạn áp dụng BPNC cũng phải kéo dài tương ứng. Và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng tương tự (gia hạn thời hạn giải quyết, hoãn phiên tòa...). Hoặc như khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì phát sinh thêm 15 ngày (hoặc 30 ngày nếu vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan) từ ngày ra quyết định đến ngày mở phiên tòa. Như vậy việc tính thời hạn áp dụng BPNC “bảo lĩnh” như thế nào?
Điều luật quy định “Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”. Nếu sau khi tuyên án Hội đồng xét xử (HĐXX) hoặc Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa tiếp tục áp dụng BPNC trên thì thời hạn là bao nhiêu, để đảm bảo thi hành án hoặc giải quyết các thủ tục tố tụng tiếp theo (giải quyết kháng cáo, kháng nghị...). BLTTHS quy định “...“kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù...”. Quy định này có thể hiểu áp dụng cho nhiều giai đoạn tiếp theo (kháng cáo, kháng nghị, giải quyết phúc thẩm...) đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng khi HĐXX tuyên án, nếu có áp dụng BPNC nêu trên thì thời hạn “bảo lĩnh” kể từ khi tuyên án cho đến khi người đó đi chấp hành án phạt tù. Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để điều tra hoặc xét xử lại thì thời hạn áp dụng như trên (đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù) phải xử lý như thế nào về thời hạn. Bởi lẽ trong quyết định “bảo lĩnh” ghi rõ đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù thì cấp phúc thẩm khó áp dụng BPNC này trong thời gian tiếp theo. Ngoài ra, thời hạn “bảo lĩnh” có cần thiết phải liên tục không? Có thể bị gián đoạn không (ví dụ trường hợp khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án, chưa kịp phân công Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa). Các vấn đề trên chưa có hướng dẫn cụ thể, gây ra tình trạng áp dụng tùy tiện, không thống nhất.
- BLTTHS quy định khi áp dụng BPNC “bảo lĩnh” thì bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ theo quy định, người nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Như vậy, các văn bản trên có được sử dụng xuyên suốt qua các giai đoạn tố tụng hay không? Hay mỗi giai đoạn tố tụng hoặc mỗi lần ra Quyết định “bảo lĩnh” khác nhau phải yêu cầu bị can, bị cáo (“bảo lĩnh” thì thêm người nhận bảo lĩnh) làm lại giấy cam đoan. Từ thực tiễn xét xử, tác giả nhận thấy còn áp dụng tùy tiện, không thống nhất. Vì quá trình giải quyết vụ án có nhiều giai đoạn tố tụng, mỗi giai đoạn có thể phải kéo dài, gia hạn... Nếu mỗi lần ra quyết định nói trên phải yêu cầu bị can, bị cáo làm giấy cam đoan là không cần thiết (ví dụ: giai đoạn xét xử ra quyết định bảo lĩnh lần đầu, gia hạn thời hạn chuẩn bị ra thêm quyết định cho bảo lĩnh phải cần có thủ tục bảo lĩnh; hoãn phiên tòa 03 lần lại cần thủ tục giấy tờ cam đoan 03 lần...) gây phiền hà, mất thời gian cho bị can, bị cáo, người nhận bảo lĩnh, nhất là các vụ án có bị can, bị cáo ở xa các CQTHTT (đặc biệt là các Tòa án quân sự địa bàn rất rộng nên vấn đề này gây ảnh hưởng lớn đến việc gửi các thủ tục của bị can, bị cáo, người nhận bảo lĩnh), dẫn đến sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng đúng thời hạn các BPNC “bảo lĩnh”.
- Tòa án sau khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vẫn ra quyết định cho “bảo lĩnh”, có Tòa án sau khi xét xử không tiếp tục áp dụng một trong các BPNC, mặc dù bị cáo bị áp dụng hình phạt tù. Có quan điểm cho rằng tùy thuộc vào từng loại hình phạt được áp dụng, từ đó mới có căn cứ để Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp ngăn chặn sau khi xét xử. Tuy nhiên, vấn đề này chưa có văn bản hướng dẫn. Ngày 03/7/2019, Tòa án quân sự Trung ương có Công văn số 503/TA-NCTH thông báo Kết luận của Chánh án Tòa án quân sự Trung ương tại Hội nghị Sơ kết và tập huấn nghiệp vụ năm 2019, có nội dung: “Căn cứ vào tính chất của hai loại hình phạt nêu trên (phạt tiền, cải tạo không giam giữ) thì không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn “bảo lĩnh” hoặc “cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với họ”. Tuy nhiên, trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì có tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn không? Thẩm quyền thuộc HĐXX hay Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa?.
- Thực tiễn áp dụng BPNC “Bảo lĩnh” hiệu quả thấp, nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, người nhận bảo lĩnh không theo dõi, quản lý chặt chẽ nên để xảy ra việc bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan, gây khó khăn cho quá trình tiến hành tố tụng. Trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc quản lý, theo dõi bị can, bị cáo tại ngoại không rõ ràng, khi vi phạm thì không có chế tài áp dụng làm hạn chế tính khả thi của các biện pháp ngăn chặn này. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì bị phạt tiền (khoản 6 Điều 121 BLTTHS) nhưng chưa có quy định về cơ chế xử phạt (trình tự, thủ tục, thẩm quyền...).
2. Một số đề xuất, kiến nghị
- Thứ nhất, theo tác giả phải thống nhất cách hiểu quy định biện pháp ngăn chặn “bảo lĩnh” được áp dụng kể cả đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam và bị can, bị cáo bị khởi tố, chưa bị tạm giữ, tạm giam, nhưng thấy vẫn cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân bị can, bị cáo. Cách hiểu này thể hiện phạm vi áp dụng của biện pháp này toàn diện hơn. Còn quan điểm: Biện pháp “bảo lĩnh” chỉ áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam (nghĩa là bị can, bị cáo đang bị tạm giam thay đổi sang biện pháp “bảo lĩnh”) là không đầy đủ.
- Thứ hai, đối với bị can, bị cáo chỉ áp dụng biện pháp bảo lĩnh khi có các điều kiện sau: Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người tàn tật nặng hoặc đặc biệt nặng; phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; người già, bệnh nặng, người chưa thành niên. Có căn cứ xác định sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng; việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Không áp dụng bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội; bị can, bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã; là đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; người nghiện ma túy; hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây dư luận trong xã hội.
- Thứ ba, để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, tác giả đề xuất sửa quy định tại điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS cụ thể như sau: 2. Khi tiến hành việc giải quyết vụ án hình án hình sự, Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ, quyền hạn: “a. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, xử lý vật chứng;”
- Thứ tư, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, để đảm bảo các thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh không bị gián đoạn, tác giả đề xuất trước khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ chuyển sang Tòa án thụ lý giải quyết theo thẩm quyền phải thông báo cho Tòa án biết đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, kể cả biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh (tương tự như biện pháp ngăn chặn tạm giam). Đồng thời, quy định mỗi giai đoạn tố tụng phải có thủ tục bảo lĩnh mới (giấy cam đoan của bị can, bị cáo, của người nhận bảo lĩnh...). Đối với giai đoạn xét xử của Tòa án khi thụ lý vụ án, phải yêu cầu bị can, bị cáo cung cấp thủ tục bảo lĩnh mới; không áp dụng thủ tục bảo lĩnh của giai đoạn trước đó của CQĐT, VKS.
- Thứ năm, đối với người nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là cá nhân nhận bảo lĩnh quy định điều kiện phải là người thân thích của bị can, bị cáo; có phẩm chất chính trị tốt, không liên quan đến vụ án; có khả năng thực hiện trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh; phải cư trú cùng địa phương với bị can, bị cáo để bảo đảm sự giám sát để có thể kịp thời báo cáo ngay đến CQTHTT khi phát hiện người được bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Có sự đồng ý của người được bảo lĩnh là bị can, bị cáo. Người nhận bảo lĩnh có thể là người bào chữa hoặc đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo. Kèm theo chứng cứ, tài liệu về hành vi phạm tội, nhân thân của bị can để xác định tính chất, mức độ hành vi của bị can không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam...
- Thứ sáu, đối với người nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh quy định cơ quan, tổ chức không liên quan đến vụ án; có khả năng thực hiện trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh; đối với cơ quan, tổ chức là doanh nghiệp khi nhận bảo lĩnh phải cung cấp tài liệu về kết quả kinh doanh trong thời gian 06 tháng gần nhất, xác định là doanh nghiệp không làm ăn thua lỗ, nợ nần, không có hành vi vi phạm pháp luật và không bị điều tra, truy tố, xét xử; phải là cơ quan trực tiếp của bị can, bị cáo để bảo đảm sự giám sát để có thể kịp thời báo cáo ngay đến CQTHTT khi phát hiện người được bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Có sự đồng ý của người được bảo lĩnh là bị can, bị cáo.
- Thứ bảy, đề nghị cơ quan chuyên môn cấp trên quy định chặt chẽ hơn về ràng buộc cụ thể để nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, giám sát các đối tượng được áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và một số biện pháp ngăn chặn không bị tạm giam khác. Đây là vấn đề cần được đặt ra để giải quyết vì trong thực tế hiện nay, có rất nhiều trường hợp các đối tượng được áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên trong thời gian tại ngoại các đối tượng trên đã trốn khỏi địa phương hoặc chuyển đi địa phương khác làm ăn, sinh sống mà không thông báo và làm các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật. Do đó, khi Tòa án ra quyết định thi hành án thì bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành, dẫn đến Cơ quan THAHS phải ra quyết định truy nã và tổ chức truy bắt (đối với trường hợp bị án bị xử phạt tù) hoặc là không thể thi hành được (trong trường hợp án treo, cải tạo không giam giữ), gây hậu quả mất niềm tin trong nhân dân và tốn thời gian, tiền của của Nhà nước./.
NGUYỄN TẤT TRÌNH
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5
Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
CHIỀU THỨ 7
1. Nguyên tắc quy hoạch cán bộ trong Quy định mới của Bộ Chính trị
(LSVN) - Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định 50-QĐ/TW ngày 27/12/2021 về công tác quy hoạch cán bộ. Trong đó, quy định rõ về nguyên tắc quy hoạch cán bộ.
Quy định này quy định về nguyên tắc, mục đích, yêu cầu, đối tượng, nhiệm kỳ, hiệu lực, thẩm quyền, trách nhiệm, phương pháp, tiêu chuẩn, điều kiện, độ tuổi, cơ cấu, số lượng, quy trình, quản lý và công khai trong công tác quy hoạch cán bộ; áp dụng đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo đó, quy định nguyên tắc quy hoạch cán bộ như sau:
- Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, liên thông, công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch cán bộ.
- Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền trên cơ sở nêu cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị, người đứng đầu, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát trong công tác quy hoạch cán bộ.
- Coi trọng chất lượng, bảo đảm cân đối, hài hòa, hợp lý, liên thông giữa các khâu trong công tác cán bộ; giữa quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng; giữa đánh giá với quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ; giữa cán bộ quy hoạch với cán bộ đương nhiệm; giữa nguồn cán bộ ở Trung ương với địa phương, địa bàn và lĩnh vực công tác; giữa nguồn cán bộ tại chỗ với nguồn cán bộ từ nơi khác. Phấn đấu quy hoạch theo cơ cấu ba độ tuổi, tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn, lĩnh vực công tác.
- Quy hoạch cấp ủy các cấp phải gắn với quy hoạch lãnh đạo, quản lý; lấy quy hoạch các chức danh cấp ủy làm cơ sở để quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý; quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cấp trên; gắn kết chặt chẽ quy hoạch cán bộ của các địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị với quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.
- Chỉ quy hoạch chức danh cao hơn, mỗi chức danh lãnh đạo, quản lý quy hoạch không quá ba cán bộ, một cán bộ quy hoạch không quá ba chức danh ở cùng cấp. Không thực hiện quy hoạch đồng thời với việc đề xuất bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.
Quy định cũng nêu rõ các trường hợp đương nhiên ra khỏi quy hoạch. Cán bộ quá tuổi quy hoạch hoặc bị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên (đối với cá nhân) hoặc kết luận không bảo đảm tiêu chuẩn chính trị của chức danh quy hoạch thì đương nhiên ra khỏi quy hoạch.
DUY ANH
Những vướng mắc trong áp dụng chế định phạt tù nhưng cho hưởng án treo
2. 04 Luật trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng sẽ được sửa đổi trong năm 2022
(LSVN) - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 13/01/2022 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2022. Trong đó Ngân hàng Nhà nước đề ra nhiệm vụ sẽ sửa đổi 04 Luật trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng.
![]()
Ảnh minh họa.
Chỉ thị nêu rõ thực hiện Nghị quyết số 32/2021/QH15 ngày 12/11/2021, Nghị quyết số 41/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2022 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ, Nghị quyết số 23-NQ/BCSĐ ngày 31/12/2021 của Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức tín dụng) thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2022 nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Cụ thể, theo kế hoạch thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, 04 Luật dự kiến được sửa đổi bao gồm:
- Luật phòng, chống rửa tiền (sửa đổi).
- Sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng.
- Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Ngoài ra, Chỉ thị 01/CT-NHNN còn đặt ra kế hoạch xây dựng một số Nghị định, Thông tư hướng dẫn về hoạt động ngân hàng như xây dựng 05 Nghị định:
+ Nghị định Chính phủ về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
+ Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng.
+ Nghị định thay thế Nghị định 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của NHNN.
+ Nghị định của Chính phủ về phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam.
- Xây dựng 06 Thông tư: Thông tư hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt; Thông tư hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Thông tư hướng dẫn dịch vụ trung gian thanh toán; Thông tư quy định về hoạt động thẻ ngân hàng; Thông tư quy định về giám sát các hệ thống thanh toán, hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ trung gian thanh toán; Thông tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
HÀ ANH
3. Hà Nội: Chủ động xem xét cho học sinh đã tiêm đủ 2 mũi được đi học trực tiếp
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 20/01/2022 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh và bảo đảm công tác y tế dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022.
![]()
Chỉ thị nêu rõ, thành phố yêu cầu căn cứ tình hình dịch tại địa phương và số lượng học sinh được tiêm vaccine để chủ động xem xét, quyết định cho học sinh đã tiêm đủ 2 mũi được đi học trực tiếp và chủ động thông báo trước cho phụ huynh, học sinh để có sự chuẩn bị tốt nhất; xây dựng phương án, kịch bản, chỉ đạo các trường tổ chức tập huấn, diễn tập các tình huống khi phát sinh F0 với nhiều kịch bản, cấp độ dịch, các tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện.
Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp Sở Y tế, UBND các quận, huyện, thị xã hướng dẫn, tổ chức phương án diễn tập các tình huống phòng, chống dịch tại trường học trước Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022; tiếp tục tham mưu UBND thành phố lộ trình, phương án để học sinh trở lại trường học trực tiếp đảm bảo an toàn tuyệt đối cho học sinh và cán bộ, giáo viên.
Đối với người dân, UBND thành phố đề nghị tiếp tục nâng cao ý thức của bản thân đối với cộng đồng; chấp hành nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, trong đó thực hiện nghiêm thông điệp 5K; khuyến cáo người cao tuổi, người có bệnh nền, người có nguy cơ cao hạn chế tham gia các hoạt động tập trung đông người khi không cần thiết.
Chủ tịch UBND thành phố yêu cầu UBND, ban chỉ đạo phòng, chống dịch các quận, huyện, thị xã bám sát các nguyên tắc nêu tại Chỉ thị này, tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch trên địa bàn; thực hiện hiệu quả nguyên tắc "5K + vaccine, thuốc điều trị + công nghệ + ý thức người dân".
Các địa phương cũng rà soát, thống kê, cập nhật kịp thời số liệu về công tác phòng, chống dịch để làm cơ sở phân tích, đánh giá chính xác tình hình, có giải pháp phù hợp, hiệu quả. Kiểm tra, đôn đốc, huy động các lực lượng tham gia phòng, chống dịch, nhất là dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Nhâm Dần theo nguyên tắc "4 tại chỗ". Đối với những địa bàn rà soát cần tăng cường, bổ sung lực lượng y tế, khẩn trương báo cáo về Sở Y tế - cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo thành phố kịp thời tham mưu, báo cáo UBND thành phố trong ngày 22/1/2022 để xem xét, chỉ đạo.
UBND, ban chỉ đạo phòng, chống dịch các quận, huyện, thị xã cũng chỉ đạo lực lượng ứng trực 24/24 giờ; tăng cường kiểm tra, giám sát di biến động dân cư, quản lý việc điều trị F0, cách ly F1 tại nhà; phát huy hiệu quả phần mềm quản lý người nhiễm Covid-19; hoạt động tổ Covid-19 cộng đồng; tăng cường các hình thức tiếp nhận, xử lý thông tin (tổng đài, nhóm Zalo, Facebook…), huy động các lực lượng tham gia tổng đài tiếp nhận thông tin, phản ánh của người dân liên quan đến phòng, chống dịch, an sinh xã hội, hỗ trợ, giúp đỡ, phát thuốc cho các trường hợp F0 điều trị tại nhà… bảo đảm kịp thời, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán, giúp người dân yên tâm điều trị.
Các địa phương tiếp tục rà soát, thống kê, lập phương án các trường hợp trong độ tuổi nhưng chưa được tiêm chủng, người từ chối tiêm trên địa bàn; tổ chức các điểm tiêm cố định, lưu động, thực hiện chiến dịch cao điểm tiêm chủng xuyên Tết Nguyên đán từ ngày 1/2/2022 đến ngày 28/2/2022 theo lời phát động của Thủ tướng Chính phủ nhằm triển khai "Thần tốc" và "Thần tốc hơn nữa" việc tổ chức tiêm mũi bổ sung, mũi nhắc lại theo hướng dẫn của ngành Y tế; đẩy mạnh công tác truyền thông, vận động người dân tham gia tiêm chủng dịp Tết Nguyên đán, đồng thời tiếp tục rà soát người trên 50 tuổi, người có bệnh lý nền, người có nguy cơ cao không thể đến các điểm tiêm chủng để tổ chức tiêm tại nhà; rà soát tiêm đủ liều vaccine cho trẻ từ 12 tuổi trở lên để không bỏ sót, chuẩn bị cho học sinh đến trường an toàn; phấn đấu hoàn thành việc tiêm phủ mũi 3, mũi bổ sung, mũi nhắc lại trong quý I-2022.
Các địa phương cũng đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân, công nhân, người lao động thực hiện nghiêm các quy định về phòng, chống dịch, nhất là trong quá trình di chuyển về quê, sinh hoạt trong dịp Tết và trở lại nơi làm việc sau Tết; tăng cường thanh tra, kiểm tra các cơ sở kinh doanh thuốc; phát hiện và kịp thời xử lý nghiêm các trường hợp có hành vi đầu cơ, tích trữ, buôn bán thuốc giả, thuốc kém chất lượng, thuốc không được phép lưu hành.
MAI HUỆ
Bắt giữ Giám đốc và 01 nhân viên BV Thủ Đức vụ mua kit xét nghiệm Việt Á
4. Bản án nào dành cho nữ sinh đầu độc sát hại bố đẻ?
(LSVN) - Sự việc một người đàn ông tại Bà Rịa-Vũng Tàu bị đầu độc, giấu xác, đốt nhà tạo hiện trường giả lại một lần nữa khiến dư luận phẫn nộ trong những ngày giáp tết. Hung thủ không phải người xa lạ mà chính là con gái của nạn nhân. Với hành vi mất nhân tính ấy, bản án thích đáng nào sẽ dành cho kẻ thủ ác?
Trao đổi về vấn đề này, Luật sư Hoàng Tùng – Trưởng Văn phòng Luật sư Trung Hòa (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho rằng: “Căn cứ lời khai của Linh mà cơ quan điều tra cung cấp, tôi cho rằng hành vi của Tống Thị Tùng Linh có đủ yếu tố cấu thành tội danh “Giết người”, các tình tiết tăng nặng theo điểm đ, điểm l khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Hình sự đối với hành vi “Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình”.
![]()
Hiện trường vụ án.
Bên cạnh đó, Linh có thể bị truy tố về hành vi hủy hoại tài sản khi dùng xăng tự đốt nhà để tạo hiện trường giả theo quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự đối với hành vi “hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản để che dấu tội phạm khác”
Đáng lên án ở đây là hành vi máu lạnh của kẻ giết người, dùng chất độc xyanua để tước đi mạng sống của chính ba ruột mình. Đây là trường hợp giết người mang tính phản trắc, bội bạc, giết người đã sinh thành nuôi nấng mà đáng nhẽ ra kẻ phạm tội phải biết ơn, kính trọng. Theo như lời khai, Linh hòa chất độc xyanua vào 03 chai nước lạnh rồi để trong tủ lạnh. Đối với tình tiết này có thể xem xét hành vi giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người. Bởi dù cho mục đích của Linh chỉ hướng đến ba mình nhưng việc hòa chất độc vào cả ba chai nước trong tủ lạnh có thể những người khác uống phải đều gây tử vong. Đối với hành vi giết người cùng các tình tiết tăng nặng nêu trên, có thể Linh sẽ phải chịu khung hình phạt cao nhất là tử hình.
Liên hệ với những vụ án gây bức xúc trong xã hội thời gian gần đây, Luật sư Hoàng Tùng cho biết thêm: “Thực tế đáng buồn mà chúng ta đang đối mặt, gần đây hàng loạt những vụ án về bạo hành, giết người liên tục xảy ra khiến dư luận xã hội phẫn nộ, lên án gay gắt. Đồng thời cũng thất vọng, hụt hẫng bởi những vụ án đều bắt nguồn từ suy thoái đạo đức của kẻ phạm tội. Đó là: vụ việc “mẹ kế đánh con gái 08 tuổi tử vong ở thành phố Hồ Chí Minh được cha đẻ che giấu”, “bé gái 03 tuổi bị nhân tình của mẹ cắm 09 cây đinh vào đầu tại Thạch Thất”, “bé gái 12 tuổi bị cha dượng xâm hại, mẹ ruột bạo hành ở Xuân Đỉnh”, “cha dượng bạo hành bé trai 05 tuổi ở Bình Dương”, “người bố dùng đũa đánh con lớp 1 đến chết tại Hà Nội” và gần đây nhất là vụ “thiếu nữ Vũng Tàu dùng xyanua độc chết chính bố để mình”.
Những vụ việc liên tiếp xảy ra như từng hồi chuông dần đều vang lên cảnh báo chúng ta về sự suy đồi, xuống cấp đạo đức trong xã hội gần đây. Tôi nhận thấy rằng khi dư âm mỗi vụ án thương tâm cũ chưa kịp phai thì chúng ta lại “sốc hơn” đón nhận một vụ án mới mà tính chất mức độ nghiêm trọng hơn, sự xuống cấp đạo đức cũng triệt để hơn. Những giá trị tự nhiên, thiêng liêng là “tình mẫu tử, tình cha con, tình thương đồng loại giữa người với người” đáng nhẽ được tôn thờ thì đều bị bị xâm phạm.
Trước hiện trạng này, sâu trong lương tri con người hẳn đều giao động, bàng hoàng và đau lòng về vấn đề “xuống cấp đạo đức”. Có lẽ truyền thông và dư luận xã hội sẽ dần tê liệt và quen với việc xuất hiện nhiều biểu hiện “chưa từng có” so với trước đây ở trong xã hội chúng ta về của sự xuống cấp đạo đức, với chiều hướng ngày càng gia tăng, mức độ ngày càng nghiêm trọng.
"Tôi cho rằng khi tần xuất những vụ việc như trên xuất hiện liên tục sẽ gây tác động tiêu cực tới “ngộ độc” đạo đức xã hội. Điều đó hoàn toàn là có thể nếu như chúng ta không sớm đưa ra phương án để giải quyết vấn đề này. Chúng ta sống trong chế độ Nhà nước pháp quyền, đề cao thượng tôn pháp luật. Trong vụ án trên, pháp luật là công cụ mà nhà nước sử dụng để cưỡng chế nghiêm khắc như phạt tù, tử hình… thì đạo đức lại được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp mang tính xã hội và thường ít nghiêm khắc hơn. Sự lên án của xã hội triền miên, day dứt, thậm chí suốt cả cuộc đời người phạm tội. Vậy nên, suy cho cùng trong xã hội cần song hành cả pháp luật và đạo đức.”, Luật sư Tùng bày tỏ.
PV THANH HAO
Một số tồn tại, vướng mắc trong việc định tội danh đối với tội 'Lừa đảo chiếm đoạt tài sản'
9 tỉnh được nhận gạo từ nguồn dự trữ quốc gia trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần
(LSVN) - Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký các quyết định xuất cấp gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho 9 tỉnh để hỗ trợ cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần, giáp hạt đầu năm 2022 và nhân dân bị ảnh hưởng mưa lũ.
![]()
Theo đó, tại Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 21/01/2022, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính xuất cấp không thu tiền 3.738,48 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia (bao gồm 3.000 tấn gạo tạm cấp tại Thông báo số 333/TB-VPCP ngày 10/12/2021) cho các tỉnh: Quảng Ngãi 1.081,35 tấn, Phú Yên 1.038,405 tấn, Bình Định 1.618,725 tấn để hỗ trợ cho nhân dân bị ảnh hưởng mưa lũ.
Tại Quyết định số 123/QĐ-TTg, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính xuất cấp không thu tiền 9.877,875 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các tỉnh: Tây Ninh, Cao Bằng, Phú Yên, Ninh Thuận, Nghệ An, Gia Lai và Quảng Bình để hỗ trợ cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần và giáp hạt đầu năm 2022.
Cụ thể, xuất cấp 6.902,205 tấn gạo để hỗ trợ dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022 cho các tỉnh: Tây Ninh 825,48 tấn; Cao Bằng 624,66 tấn; Phú Yên 1.008,105 tấn; Ninh Thuận 1.508,82 tấn; Nghệ An 1.140,69 tấn; Gia Lai 692,205 tấn; Quảng Bình 1.102,245 tấn.
Bộ Tài chính xuất cấp 2.975,670 tấn gạo để hỗ trợ dịp giáp hạt đầu năm 2022 cho các tỉnh: Cao Bằng 1.093,365 tấn; Gia Lai 697,935 tấn; Quảng Bình 1.184,370 tấn.
Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xử lý cụ thể theo quy định; chịu trách nhiệm về thông tin và số liệu báo cáo. UBND các tỉnh: Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định, Tây Ninh, Cao Bằng, Ninh Thuận, Nghệ An, Gia Lai và Quảng Bình chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu báo cáo và thực hiện hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng, đúng định mức theo quy định.
DUY ANH
Mã định danh học sinh, sinh viên sử dụng thống nhất ở tất cả cấp học
SÁNG CHỦ NHẬT
1. Xác định số tiền thu lợi bất chính trong cho vay lãi nặng để xử lý trách nhiệm hình sự như thế nào?
(LSVN) – Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về việc xác định số tiền thu lợi bất chính trong cho vay lãi nặng để xử lý trách nhiệm hình sự? Bạn đọc Q.A. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Ngày 20/12/2021, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) về việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Nghị quyết nêu rõ “Cho vay lãi nặng” là trường hợp bên cho vay cho bên vay vay tiền với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Trường hợp cho vay bằng tài sản khác (không phải là tiền) thì khi giải quyết phải quy đổi giá trị tài sản đó thành tiền tại thời điểm chuyển giao tài sản vay.
Còn “Thu lợi bất chính” là số tiền lãi vượt quá mức lãi suất vay cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự và các khoản thu trái pháp luật khác của người vay.
Trường hợp thu lợi bất chính là tài sản khác (không phải là tiền) thì phải được quy đổi thành tiền tại thời điểm chuyển giao tài sản vay.
Việc xác định số tiền thu lợi bất chính để xử lý trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại Điều 6 Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP. Theo đó, trường hợp cho vay lãi nặng đã hết thời hạn vay theo thỏa thuận thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự trong cả kỳ hạn vay.
Trường hợp cho vay lãi nặng chưa hết thời hạn vay theo thỏa thuận mà bị phát hiện thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự tính đến thời điểm cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn.
Trường hợp bên vay đã trả tiền lãi trước hạn và các khoản thu trái pháp luật khác thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay thực tế đã trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 30/9/2021 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/12/2021.
Trường hợp người phạm tội đã bị xét xử trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các quy định, hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
PHƯƠNG HOA
Thanh tra việc mua sắm trang thiết bị và vaccine phòng, chống dịch Covid-19 tại Bộ Y tế
2. Thỏa thuận nuôi con chung sau ly hôn theo pháp luật Australia – kiến nghị cho Việt Nam
(LSVN) - Bài viết sẽ trình bày các quy định và thực tiễn hình thành các thỏa thuận nuôi con chung theo pháp luật Australia từ đó có những kiến nghị về vấn đề này ở Việt Nam.
Pháp luật của Australia quy định khá chi tiết về việc hình thành một thỏa thuận nuôi con chung sau khi một cặp vợ chồng tiến hành các thủ tục ly hôn. Việc ghi nhận các cam kết, thỏa thuận liên quan đến việc chăm sóc và nuôi dưỡng con chung được thống nhất giữa các cặp vợ chồng là nền tảng quan trọng để đảm bảo sự quyền và lợi ích của con chung dù quan hệ hôn nhân giữa họ đã chấm dứt.
![]()
Bà mẹ và các con - Nguồn: The Australian.
1. Quy định chung về ly hôn và quyền nuôi con theo pháp luật Australia
Các quy định pháp luật về ly hôn và những vấn đề liên quan đến quyền nuôi con cũng như phân chia tài sản theo pháp luật Australia được quy định tại các phần VI, VII, VIII của Đạo luật Gia đình năm 1975. Tại Điều 48 Đạo luật này xác định thì một cuộc hôn nhân chỉ chấm dứt khi nó đã “tan vỡ đến mức không thể cứu vãn nổi”.
Các cặp vợ chồng cần chứng minh được họ đã ly thân tối thiểu 12 tháng và không có khả năng tái hợp trở lại. Khi ly thân, cặp vợ chồng không nhất thiết phải sống ở hai nơi mà có thể vẫn chung sống dưới một mái nhà nhưng họ phải chứng minh được rằng mỗi người đã có cuộc sống riêng biệt và không còn quan tâm nhau. Trường hợp Tòa án xét thấy hai bên vẫn còn khả năng tái hợp thì sẽ không giải quyết cho ly hôn.
Tương tự như pháp luật các nước, pháp luật Australia đều chấp nhận việc đơn phương ly hôn hoặc thuận tình ly hôn. Về cơ bản, Tòa án chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố chấm dứt hôn nhân của các vợ chồng muốn ly hôn. Nếu muốn giải quyết các vấn đề về phân chia tài sản, nuôi dưỡng con cái, tiền cấp dưỡng cho người còn lại thì một trong hai bên phải nộp đơn yêu cầu giải quyết riêng trong vòng 12 tháng kể từ ngày phán quyết ly hôn có hiệu lực.
Đối với quyền nuôi con, các cặp vợ chồng được khuyến khích nên tự thoả thuận về người được quyền nuôi con cũng như cấp dưỡng trước khi đưa vấn đề này để Tòa xem xét. Trường hợp không thỏa thuận được, theo pháp luật Australia, Tòa án sẽ phán xét quyền nuôi con chung dựa trên khả năng bên nào có thể đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho đứa trẻ. Tòa sẽ cân nhắc xem xét về việc bảo vệ con tránh khỏi bạo lực gia đình, tổn hại về thể xác và tinh thần, cũng như ý muốn của trẻ về việc muốn ở cùng ai, mối quan hệ giữa đứa trẻ với cha mẹ và với những người ở cùng cha mẹ. Tòa cũng đánh giá về đạo đức, phẩm chất của cha hoặc mẹ và khả năng của người trực tiếp nuôi con trong việc đáp ứng những nhu cầu của con để đưa ra quyết định cuối cùng.
2. Thỏa thuận nuôi chung con sau ly hôn
Theo pháp luật của Australia, trước khi có thể bắt đầu thủ tục tố tụng ra tòa về ly hôn, trừ khi trường hợp ngoại lệ như bạo hành, thì hai bên vợ chồng cần phải tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong hôn nhân trong đó có vấn đề quyền nuôi con và thỏa thuận nuôi con chung.
Quá trình thỏa thuận thường đạt được thông qua việc thương lượng giữa cha mẹ với sự trợ giúp của các dịch vụ tư vấn hay trung tâm hòa giải. Về nguyên tắc không được phép ép buộc người kia phải đồng ý với thỏa thuận. Thông thường, cha mẹ sẽ cần chuyên gia tư vấn về pháp lý vì các thỏa thuận họ đưa ra về có nhiều vấn đề quan trọng như nơi ở và nơi học tập, sinh hoạt của con, điều cũng có thể ảnh hưởng tới các vấn đề về tài sản và việc cấp dưỡng cho con chung.
Đặc biệt, cha mẹ cần có những thỏa thuận về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và những sắp đặt cho con chung của họ, còn được gọi là thỏa thuận nuôi con chung. Một Luật sư, chuyên viên tư vấn về gia đình hoặc cố vấn viên gia đình có thể giúp các cặp vợ chồng ly hôn lập ra một thỏa thuận nuôi con chung hoàn chỉnh dưới dạng văn bản với có chữ ký và ghi rõ ngày tháng.
Thỏa thuận này có thể được thay đổi bằng một bản thỏa thuận khác, có chữ ký của các bên. Thỏa thuận này không quy định nghĩa vụ pháp lý đối với bất cứ bên nào, tuy nhiên, trong trường hợp một bên yêu cầu giải quyết về quyền nuôi con thì Tòa có thể xem xét những điều đã được thỏa thuận nuôi con chung làm cơ sở để giải quyết vụ việc.
Sau khi đạt được thỏa thuận, các bên có thể nộp và được Tòa án công nhận thỏa thuận nuôi con chung để đảm bảo tính ràng buộc, đảm bảo thực thi bởi Tòa án của thỏa thuận nuôi con chung. Thông thường các công nhận này được thực hiện tại Tòa án Địa phương (Local Court) hoặc Tòa án Gia đình (Family Court). Đối với những vụ việc phức tạp hơn, có khả năng do Tòa án Gia đình quyết định với thủ tục cụ thể hơn nhằm mục đích đáp ứng tốt hơn quyền và lợi ích tốt nhất cho con chung.
Một số thỏa thuận nuôi con chung chi tiết về quyền thăm nom con chung được ví dụ cụ thể như sau:
1.Những đứa trẻ Jack Smith sinh ngày 25 tháng 1 năm 2004 và Jill Smith sinh ngày 8 tháng 4 năm 2006 sống với cha (hoặc mẹ).
2.Cha và mẹ có trách nhiệm chung như nhau đối với bọn trẻ; hoặc là cha/mẹ cha có trách nhiệm làm cha mẹ duy nhất đối với bọn trẻ.
3.Cha và mẹ cũng dành thời gian cho con cái theo thỏa thuận giữa các bên. Hoặc theo thỏa thuận sau:
4.Trong ví dụ này, bọn trẻ sống với cha và dành thời gian cho mẹ .Những đứa trẻ Jack Smith sinh ngày 25 tháng 1 năm 2004 và Jill Smith sinh ngày 8 tháng 4 năm 2006 dành thời gian với mẹ như sau:
Mỗi cuối tuần luân phiên từ 9 giờ sáng Thứ Bảy đến 5 giờ chiều Chủ Nhật; sẽ kéo dài đến 5 giờ chiều vào Thứ hai nếu cuối tuần là một ngày kỳ nghĩ dài.
Thời gian cuối tuần được mô tả trong đoạn (a) sẽ không tính trong thời gian đứa trẻ nghỉ học.
Mỗi năm từ 5 giờ chiều thứ Bảy đến 5 giờ chiều Chủ nhật cuối tuần của “Ngày của Mẹ”, nếu thời gian đó chưa được đề cập trong thỏa thuận này.
Thời gian cuối tuần được mô tả trong đoạn (a) bị đình chỉ vào cuối tuần của “Ngày của Cha” mỗi năm từ 5 giờ chiều thứ Bảy đến 5 giờ chiều ngày Chủ nhật.
Ba tuần trong kỳ nghỉ lễ Giáng sinh hàng năm, bắt đầu lúc 9 giờ sáng vào ngày thứ Bảy đầu tiên của tháng Giêng.
Luân phiên mỗi dịp lễ Giáng sinh từ 5 giờ chiều ngày 24 tháng 12 đến 10 giờ sáng ngày 26 tháng 12, bắt đầu vào Năm 2006.
Luân phiên mỗi dịp lễ Giáng sinh xen kẽ từ 10 giờ sáng ngày 26 tháng 12 đến 10 giờ sáng ngày 28 tháng 12, bắt đầu vào năm 2007.
Luân phiên mỗi dịp lễ Phục sinh luân phiên từ 5 giờ chiều Thứ Năm đến 5 giờ chiều Thứ Hai, bắt đầu từ năm 2008. Nếu Lễ Phục sinh rơi vào kỳ nghỉ học ở cuối Học kỳ 1, thời gian này sẽ là một phần của thời gian của mẹ cho kỳ nghỉ đó.
Vào sinh nhật của đứa trẻ hàng năm từ 9 giờ sáng đến 2 giờ chiều, miễn là ngày sinh nhật không rơi vào ngày học.
Mẹ sẽ gọi điện thoại trong tối đa 15 phút vào mỗi sinh nhật của trẻ nếu ngày sinh nhật trùng vào ngày học.
Người mẹ sẽ gọi điện thoại tối đa 15 phút vào mỗi thứ Tư, vào khoảng giữa 6 đến 7 giờ tối.
Người mẹ sẽ đón các con từ nơi ở của người chồng vào đầu những thời điểm này và chở con trả về chỗ cũ vào cuối thời gian này.
Có thể thấy tại Australia, các cặp vợ chồng khi ly hôn cần thống nhất để đưa ra thỏa thuận nuôi dạy con chung dựa trên nhiều yếu tố bao gồm như độ tuổi, tâm sinh lý, khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng hàng ngày hay những nhu cầu đặc biệt như trường học, môi trường chỗ ở, các nhu cầu văn hóa, thể chất và đặc biệt là sự an toàn của con chung. Các thỏa thuận chi tiết này đều được tư vấn bởi những chuyên gia tư vấn, hỗ trợ pháp lý về hôn nhân và gia đình với mục đích đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ.
3. Kiến nghị cho Việt Nam
Pháp luật Việt Nam về hôn nhân gia đình có quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bên cạnh đó Luật cũng ghi nhận quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp và người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Tuy nhiên, ngoài quy định chung trên thì pháp luật về hôn nhân gia đình cũng như thực tiễn xét xử chưa xác định một cách chi tiết, cụ thể về các thỏa thuận nuôi con sau ly hôn.
Trên thực tế, nhiều cặp vợ chồng sau khi ly hôn đều không có cái nhìn thiện cảm đối với người từng là vợ chồng của mình, thậm chí nảy sinh tâm lý thù ghét, sau giành quyền nuôi con đã chấm dứt mọi quan hệ với người vợ chồng trước đây, đặc biệt là việc thăm nom con chung của người không trực tiếp nuôi con.
Thiết nghĩ, cần bổ sung những hướng dẫn, quy định chi tiết về các thỏa thuận nuôi con, chăm nom con tương tự những ví dụ ở trên tại Australia đối với quá trình xem xét, quyết định giải quyết các vụ việc ly hôn ở Việt Nam. Các thỏa thuận nuôi con chung cần phải được lên kế hoạch rất chi tiết với các kế hoạch nuôi dạy con chung cụ thể trong từng giai đoạn tùy theo độ tuổi của con chung như nơi ở, chỗ học tập, vui chơi và đặc biệt là thỏa thuận chi tiết về việc thực quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con với thời gian rõ ràng và địa điểm cụ thể.
Thỏa thuận nuôi dạy con chung được hình thành sớm sẽ là cơ sở nền tảng, quan trọng để cả cha mẹ cùng tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung của mình cho dù quan hệ hôn nhân của họ đã kết thúc. Đây không chỉ là những thỏa thuận giữa học với nhau mà còn là những cam kết, lời hứa vì những điều tốt đẹp nhất mà họ mong muốn dành cho con chung.
Việc đảm bảo tuân thủ các thỏa thuận này không chỉ tránh những hành vi cản trở quyền thăm nuôi con mà còn tạo một cơ chế giám sát, tránh việc lạm dụng quyền trực tiếp nuôi con để gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Quá trình này sẽ hạn chế những trường hợp đáng tiếc như việc trẻ không được quan tâm, chăm sóc tốt thậm chí bị bạo hành mà chính cha hoặc mẹ là người không trực tiếp nuôi con lại không hề hay biết.
Trong thời gian tới, bên cạnh sớm ban hành hướng dẫn chi tiết về thỏa thuận về nuôi con chung, chúng ta cần phải thay đổi quan điểm về ly hôn cũng như việc chăm sóc con chung sau ly để tạo tiền đề quan trọng để góp phần bảo vệ tối ưu quyền và lợi chính đáng con chung – đối tượng dễ bị tổn thương nặng nề nhất sau khi cha mẹ ly hôn./.
Th.s LÂM BÁ KHÁNH TOÀN
Khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ
Phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động bị phạt đến 40 triệu đồng
3. Áp dụng triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự
(LSVN) - Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được hầu hết các nước có nền khoa học pháp lý phát triển áp dụng. Ở Việt Nam, mãi cho đến năm 2015 thì thuật ngữ này mới được định danh trong luật, nhưng thực tiễn áp dụng chưa được như mong muốn.
![]()
Ảnh minh họa.
Từ Hiến pháp 1992, Điều 72 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật” và tiếp tục ghi nhận tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 như một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quy định tại Điều 9 cũng như các quy định liên quan trong Bộ luật này mang nặng màu sắc của nguyên tắc suy đoán có tội của hình thức tố tụng thẩm vấn.
Theo khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng trên thế giới thì có hai hình thức tố tụng cơ bản: tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng.
Với mô hình tố tụng thẩm vấn, Kiểm sát viên, các thành viên Hội đồng xét xử giữ vai trò chủ yếu, tích cực trong việc chứng minh vụ án, Luật sư chỉ có vai trò thứ yếu. Các Thẩm phán chủ yếu tham gia thẩm vấn để củng cố các cáo buộc trong cáo trạng, đôi khi nhầm lẫn vai trò của một Kiểm sát viên. Quyền tranh tụng của Luật sư khá giới hạn, khi đại diện Kiểm sát không muốn tranh luận nữa hoặc tỏ ra đuối lý thì hay tuyên bố “bảo lưu quan điểm”, khiến các vụ án thiếu chứng cứ buộc tội vững chắc để lại tiếc nuối, hụt hẫng cũng như thất vọng cho nhiều người.
Nguyên tắc “suy đoán vô tội” như một thứ gì đó xa lạ và tạo cảm giác bất an, lo lắng cho những người tiến hành tố tụng, họ dùng chủ yếu bằng “niềm tin nội tâm” hoặc tin tưởng vào kết quả điều tra để ra phán quyết, giống như tin người trong nhà thì vẫn hơn người ngoài, các Luật sư là như người ngoài vậy, dẫn đến lời nói tại phiên tòa rất ít trọng lượng.
Mô hình tố tụng thẩm vấn trở nên lạc hậu so với trình độ phát triển xã hội, cũng như sự hòa nhập vào sự phát triển của pháp luật quốc tế, tạo nên sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, làm phát sinh nhiều án oan, án sai cũng như tiếp tục gây ra nguy cơ tiềm ẩn án oan, sai trong tương lai. Và thực tế ở Việt Nam đã xảy ra những vụ án oán gây chấn động dư luận như Nguyễn Thanh Chấn, Hàn Đức Long, Huỳnh Văn Nén,…
Khắc phục những hạn chế này, đầy đủ nội hàm của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Khoản 1 Điều 31 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Khác với quy định trong BLTTHS năm 2003, nguyên tắc này được cụ thể hoá rõ ràng hơn trong BLTTHS năm 2015.
Cụ thể, tại Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Việc chứng minh tội phạm theo đúng trình tự phải bảo đảm ở mọi giai đoạn của tố tụng, từ lúc mới là nghi can (chưa bị khởi tố) cho đến khi bị kết án bởi bản án có hiệu lực pháp luật, bất cứ một trình tự, thủ tục nào thực hiện không đúng, không đầy đủ thì xem như việc kết tội là chưa đúng đắn. Điều 13 của BLTTHS năm 2015 quy định rõ trong trường hợp, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội thì phải kết luận người bị buộc tội không có tội, có nghĩa nếu không đủ chứng cứ buộc tội thì phải xem là vô tội.
Đáng chú ý, quyền của nghi can, bị can được chú trọng, mở rộng đáng kể, như nội hàm “quyền im lặng” đã đưa vào BLTTHS năm 2015, cụ thể cho phép người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ, bị bắt trong trường hợp khẩn cấp (nghi can), người bị khởi tố (bị can) được quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Theo đó, quy định này được hiểu, trong trường hợp nghi can, bị can không tự bào chữa, bảo vệ cho mình được thì có quyền giữ im lặng cho đến khi có Luật sư bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Thực tiễn, như vụ “hoa hậu Phương Nga” mà người viết có tham gia giai đoạn đầu, bị can này đã sử dụng “quyền im lặng” rất thành công.
Tuy vậy, thực tiễn những quy định mới này trên thực tế vẫn chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hiệu quả, thực chất như mong muốn. Những cản trở khó khăn của Luật sư khi tiếp cận nghi can, bị can trong giai đoạn đăng ký thủ tục bào chữa còn nhiều. Nhiều nghi can, bị can đã không giữ được “quyền im lặng” bằng rất nhiều hình thức khó hiểu, như từ chối Luật sư, trong khi đó ai cũng hiểu trong hoàn cảnh đó, Luật sư là “cái phao” của họ. Còn tại phiên tòa thì kiểm sát viên, thẩm phán vẫn chưa thích nghi với tư duy tố tụng mới, vẫn ảnh hưởng đến mô hình tố tụng thẩm vấn cũ, thẩm vấn buộc tội và chiếm nhiều thời gian thẩm vấn của Luật sư. Quyền tố tụng của Luật sư chưa thực sự được cải thiện như mong muốn.
Án oan, án sai theo quy định tố tụng mới, có thể sẽ giảm đi so với quy định cũ, và thực tế, ngay cả những vụ án cũ kéo dài nhiều năm do chứng cứ buộc tội yếu từ kết quả điều tra, truy tố, xét xử theo mô hình tố tụng cũ cũng chưa tạo niềm tin cho các cơ quan tố tụng mạnh dạn, bản lĩnh áp dụng theo tư duy tố tụng mới. Thực tiễn có nhiều vụ án chứng cứ yếu, có nguy cơ gây hàm oan, những thiếu sót của quá trình điều tra trong quá trình thu thập chứng cứ buộc tội hay quyền lợi của nghi can, bị can không bảo đảm sẽ rất khó để chứng minh tội phạm theo luật hiện hành. Vì lẽ đó, việc kết tội với những trường hợp này đòi hỏi sự bản lĩnh và chấp nhận loại bỏ “niềm tin nội tâm” để phán quyết theo đúng nguyên tắc suy đoán vô tội, không đủ chứng cứ thì phải tuyên vô tội.
Tuy nội hàm của nguyên tắc “suy đoán vô tội” là vậy, nhưng thực tiễn còn tồn tại nhiều lý do để nguyên tắc này khó thực hiện, bởi quan điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng thì luôn quán triệt tuyệt đối là không được bỏ lọt tội phạm, còn trình độ, chuyên môn và cả phương tiện, thiết bị phục vụ công tác điều tra, khám nghiệm, thu thập chứng cứ còn thiếu và yếu, nên vẫn còn những bản kết luận điều tra và cáo trạng thiếu thuyết phục. Vì vậy, án oan, án sai sẽ khó tránh khỏi.
Để hạn chế án oan, án sai cần một thời gian nữa để các cơ quan tố tụng thích nghi với mô hình tố tụng thẩm vấn, và phải chấp nhận, thậm chí khuyến khích, động viên những “quan tòa” áp dụng triệt để nguyên tắc này, không đủ chứng cứ buộc tội thì phải tuyên vộ tội. Nếu không có nhiều vụ án được tuyên như vậy trong tương lai thì mọi nỗ lực cải cách tư pháp cũng chỉ là lý thuyết, khó đi vào thực tiễn. Trong lúc này, đội ngũ tư pháp cần những người bản lĩnh, có tâm, có tầm, mạnh dạn đưa nguyên tắc “suy đoán vô tội” vào thực tiễn, cũng như bảo đảm “quyền im lặng” của nghi can, bị can để hạn chế oan sai.
Luật sư NGUYỄN KIỀU HƯNG
Chủ tịch Hãng luật Giải Phóng
Một số vấn đề về phiên hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt
4.

