TRỰC

03/03/2022 04:40 |

(LSVN) -

1. Quy định về khiếu nại việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư

(LSVN) - Vừa qua, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 10/2021/TT-BTP ngày 10/12/2021 về hướng dẫn tập sự hành nghề Luật sư. Trong đó, quy định về khiếu nại việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư.

Cụ thể, cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Hội đồng kiểm tra, thành viên Hội đồng kiểm tra, Ban giúp việc khi có căn cứ cho rằng quyết định đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thời hiệu khiếu nại được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại.

Chủ tịch Hội đồng kiểm tra có trách nhiệm giải quyết khiếu nại trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của Hội đồng kiểm tra, người tập sự có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của thành viên Ban Chấm thi thực hành khi có căn cứ cho rằng hành vi đó làm ảnh hưởng đến kết quả môn kiểm tra thực hành của mình. Chủ tịch Hội đồng kiểm tra có trách nhiệm giải quyết khiếu nại trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.

Trong trường hợp Hội đồng kiểm tra đã giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Hội đồng kiểm tra thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Thời hạn giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam là 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam là quyết định cuối cùng.

HỒNG HẠNH

Thủ tục cấp GCN nghỉ việc hưởng BHXH cho F0 còn rườm rà, mất nhiều thời gian

2. Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện pháp dẫn giải ‘bị hại’ trong BLTTHS năm 2015

(LSVN) - Theo Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Nếu bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại.

Trong trường hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tham gia với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng được thì cơ quan, tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.

Ảnh minh họa vụ xét xử của Tòa án Quân sự.

1. Quy định về quyền và nghĩa vụ của BLTTHS về bị hại

Tại Điều 62 BLTTHS năm 2015 bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền:

“a) Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; 

b) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; 

c) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; 

d) Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; 

đ) Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; 

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; 

g) Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường; 

h) Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; 

i) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; 

k) Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; 

l) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; 

m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; 

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; 

o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa...

Bị hại có nghĩa vụ: Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

BLTTHS năm 2015, đã bổ sung những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của bị hại, qua đó tạo pháp lý rõ ràng, giúp việc thi hành pháp luật được chặt chẽ, thống nhất. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn những vướng mắc, bất cập cần được tiếp tục hoàn thiện.

2. Vướng mắc

Thứ nhất, việc dẫn giải bị hại được áp dụng khi nào?

Điểm a, khoản 4, Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định người bị hại có nghĩa vụ “có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải”. Tuy nhiên, khoản 2, Điều 127 BLTTHS năm 2015 quy định các trường hợp được dẫn giải lại không quy định trường hợp người bị hại không có mặt theo giấy triệu tập của người tiến hành tố tụng như quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 62 BLTTHS năm 2015. Nội dung quy định như trên gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng trong việc áp dụng biện pháp dẫn giải người bị hại trong trường hợp họ cố ý vắng mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.

Tại điểm b khoản 2 Điều 127 BLTTHS 2015 quy định về biện pháp dẫn giải đối với người bị hại chỉ có thể được áp dụng trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.

Qua các quy định trên có thể hiểu, dẫn giải bị hại chỉ được áp dụng khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án) triệu tập người bị hại để giám định theo quyết định trưng cầu giám định mà họ từ chối hoặc không có mặt vì lý do chính đáng.

Qua thực tiễn giải quyết các vụ án về lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe thì việc bị hại từ chối giám định sẽ dẫn đến việc xác định không chính xác hành vi phạm tội của bị can, bị cáo dẫn đến xác định sai tội danh, áp dụng sai điều, khoản. Ngoài ra trong một số vụ án, có những bị hại cố tình không đến phiên tòa mặc dù đã nhận được giấy triệu tập đến phiên tòa. Lúc này, cũng không có căn cứ áp dụng biện pháp dẫn giải đối với bị hại vì không thuộc trường hợp giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền (điểm b khoản 2 Điều 127 BLTTHS 2015).

Như vậy có sự mâu thuẫn giữa hai quy định trên về trường hợp được áp dụng biện pháp dẫn giải đối với bị hại.

Thứ hai, trong quá trình thực hiện biện pháp dẫn giải áp dụng đối với: “Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan” còn hạn chế. Trong thực tiễn xảy ra trường hợp bị hại không chấp hành quyết định trưng cầu giám định, khi nhận được quyết định trưng cầu giám định thì bỏ đi nơi khác. Lúc này cơ quan tiến hành tố tụng không còn biện pháp nào khác để buộc họ phải chấp hành quyết định trưng cầu giám định dẫn đến việc việc xác minh tố giác tin báo về tội phạm cũng như việc điều tra vụ án bị kéo dài.

3. Kiến nghị

Một là, theo quan điểm của chúng tôi nên sửa điểm b khoản 2 Điều 127 BLTTHS 2015 như sau: “Dẫn giải có thể áp dụng đối với người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp nhận được giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà họ không có mặt vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”. Như vậy sẽ đảm bảo tính thống nhất trong văn bản quy phạm pháp luật.

Hai là, trong trường hợp dẫn giải được bị hại đến cơ quan có thẩm quyền giám định nhưng bị hại không hợp tác (không cho giám định viên xem xét dấu vết trên thân thể, không cung cấp tài liệu liên quan…) thì cũng không có biện pháp ép buộc người bị hại.  Hiện chưa có quy định pháp luật khác về chế tài hay hướng dẫn của Liên ngành Trung ương về trường hợp này, nên các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn để giải quyết vụ việc vì không có kết quả giám định thì không thể khởi tố vụ án hình sự. Cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để thống nhất trong thực hiện.

Trên đây là những vướng mắc, bất cập liên quan đến biện pháp dẫn giải bị hại cần được tiếp tục hoàn thiện. Mong có ý kiến đóng góp thêm từ bạn đọc./.

NGUYỄN TỨ

Thẩm phán Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 2

Bàn về quy định tại Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao

3. Mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô, xe máy

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Thông tư 13/2022/TT-BTC do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 10/2022/NĐ-CP ngày 15/01/2022 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/3/2022.

Ảnh minh họa.

Thông tư quy định rõ, mức thu lệ phí trước bạ thực hiện theo Điều 8 Nghị định số 10/2022/NĐ-CP. Mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô, xe máy được quy định chi tiết như sau:

Xe máy áp dụng mức thu quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị định số 10/2022/NĐ-CP. Mức thu đối với các trường hợp riêng như sau:

- Xe máy của tổ chức, cá nhân ở các thành phố trực thuộc Trung ương; thành phố thuộc tỉnh; thị xã nơi Ủy ban nhân dân tỉnh đóng trụ sở: nộp lệ phí trước bạ lần đầu với mức thu là 5%.

Thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh; thị xã nơi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đóng trụ sở được xác định theo địa giới hành chính nhà nước tại thời điểm kê khai lệ phí trước bạ, trong đó: Thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm tất cả các quận, huyện trực thuộc thành phố, không phân biệt các quận nội thành hay các huyện ngoại thành, đô thị hay nông thôn; Thành phố thuộc tỉnh và thị xã nơi Ủy ban nhân dân tỉnh đóng trụ sở bao gồm tất cả các phường, xã thuộc thành phố, thị xã, không phân biệt là nội thành, nội thị hay xã ngoại thành, ngoại thị.

- Xe máy nộp lệ phí trước bạ lần thứ 02 trở đi được áp dụng mức thu là 1%.

Trường hợp chủ tài sản đã kê khai, nộp lệ phí trước bạ đối với xe máy là 2%, sau đó chuyển giao cho tổ chức, cá nhân ở địa bàn quy định tại điểm a khoản này thì nộp lệ phí trước bạ với mức thu là 5%. Trường hợp xe máy đã nộp lệ phí trước bạ theo mức thu 5% thì các lần chuyển nhượng tiếp theo nộp lệ phí trước bạ theo mức thu 1%.

Địa bàn đã kê khai, nộp lệ phí lần trước được xác định theo “Nơi thường trú”, “Nơi Đăng ký nhân khẩu thường trú” hoặc “Địa chỉ” ghi trong giấy đăng ký xe hoặc giấy chứng nhận thu hồi đăng ký, biển số xe và được xác định theo địa giới hành chính nhà nước tại thời điểm kê khai lệ phí trước bạ.

Ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô, các loại xe tương tự xe ô tô: Áp dụng mức thu quy định tại khoản 5 Điều 8 Nghị định số 10/2022/NĐ-CP.

Căn cứ vào loại phương tiện, khối lượng chuyên chở ghi tại giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường hoặc giấy chứng nhận kiểm định do đơn vị đăng kiểm Việt Nam cấp, cơ quan thuế xác định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô, các loại xe tương tự xe ô tô theo quy định tại khoản này.

Cơ quan thuế xác định mức thu lệ phí trước bạ xe ô tô trên cơ sở:\

- Số chỗ ngồi trên xe ôtô được xác định theo thiết kế của nhà sản xuất.

- Khối lượng chuyên chở được xác định theo khoản a Điều này.

- Loại xe được xác định như sau:

+ Đối với xe nhập khẩu: Căn cứ vào xác định của đơn vị đăng kiểm ghi tại mục “Loại phương tiện” của giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới nhập khẩu hoặc Thông báo miễn kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới nhập khẩu hoặc giấy chứng nhận kiểm định do đơn vị đăng kiểm Việt Nam cấp;

+ Đối với xe sản xuất, lắp ráp trong nước: Căn cứ vào mục “Loại phương tiện" ghi tại giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường ô tô sản xuất, lắp ráp hoặc Phiếu kiểm tra chất lượng xuất xưởng dùng cho xe cơ giới hoặc giấy chứng nhận kiểm định.

Trường hợp tại mục “Loại phương tiện” (loại xe) của các giấy tờ nêu trên không xác định là xe ô tô tải thì áp dụng mức thu lệ phí trước bạ đối với xe ô tô chở người.

Đối với xe ô tô chở người từ 09 chỗ ngồi trở xuống mang biển số ngoại giao, biển số nước ngoài và biển số quốc tế của các tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định số 10/2022/NĐ-CP chuyển nhượng cho các tổ chức, cá nhân khác tại Việt Nam (không thuộc đối tượng quy định khoản 2 Điều 10 Nghị định số 10/2022/NĐ-CP) thì tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng phải nộp lệ phí trước bạ với mức thu lần đầu theo quy định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc điểm a khoản 5 Điều 8 Nghị định số 10/2022/NĐ-CP trong trường hợp Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không có quy định. Giá tính lệ phí trước bạ đối với trường hợp này là giá trị còn lại của tài sản được xác định tại thời điểm kê khai lệ phí trước bạ theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 3 Thông tư này.

Đối với các loại xe ô tô biển số nước ngoài mà chủ xe là người nước ngoài (không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định số 10/2022/NĐ-CP) đã kê khai và nộp lệ phí trước bạ theo mức thu lần đầu, trường hợp người nước ngoài chuyển nhượng tài sản cho các tổ chức, cá nhân khác tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng phải kê khai, nộp lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo mức thu 2%.

Cơ quan Công an cấp biển số đăng ký xe kiểm tra loại xe, nếu phát hiện giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, Thông báo miễn kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới nhập khẩu, giấy chứng nhận kiểm định do đơn vị đăng kiểm Việt Nam cấp hoặc Phiếu kiểm tra chất lượng xuất xưởng dùng cho xe cơ giới ghi chưa đúng loại xe ô tô tải hoặc ô tô chở người dẫn đến việc áp dụng mức thu lệ phí trước bạ xe chưa phù hợp thì thông báo kịp thời với đơn vị đăng kiểm để xác định lại loại phương tiện trước khi cấp biển số.

Trường hợp đơn vị đăng kiểm xác định lại loại phương tiện dẫn đến phải tính lại mức thu lệ phí trước bạ thì cơ quan Công an chuyển hồ sơ kèm tài liệu xác minh sang cơ quan thuế để phát hành thông báo thu lệ phí trước bạ theo đúng quy định.

HỒNG HẠNH

Giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà ở

CHIỀU

1. Tài xế máy xúc đập nát 2 ô tô ở công trường đối diện với những tội danh nào?

(LSVN) - Theo Luật sư hành vi của người lái máy xúc đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác và có thể tước đoạt tính mạng của người lái xe bởi vậy người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Hủy hoại tài sản" và tội "Giết người" mặc dù nạn nhân không chết.

Mâu thuẫn trên công trường, tài xế máy xúc đập nát 2 ô tô

Vừa qua, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận đã ra quyết định bắt giữ khẩn cấp Đinh Văn Hoàng (quê ở tỉnh Kon Tum), là tài xế lái xe xúc dùng gàu đập nát 2 ô tô trên công trình cao tốc ở Bình Thuận.

Ban điều hành gói thầu XL-04 cao tốc Vĩnh Hảo - Phan Thiết cũng đã có báo cáo ban đầu vụ tài xế xe máy xúc đập phá 2 ô tô trên công trường. 

Theo hình ảnh camera của công trình ghi lại cho thấy, một người điều khiển xe máy xúc dùng gàu múc đập nát 2 chiếc xe ô tô (1 xe bán tải và xe tải). Thời điểm này, tài xế xe bán tải điều khiển xe ô tô định bỏ chạy nhưng không thành. Sau khi vụ việc xảy ra, Công an huyện Hàm Thuận Bắc đã có mặt để điều tra vụ việc.

Theo lãnh đạo Công an huyện Hàm Thuận Bắc, nguyên nhân ban đầu được xác định là các công nhân thi công tại đây có mâu thuẫn cá nhân với nhau trong quá trình sinh hoạt.

Ngoài hủy hoại tài sản, Công an cũng đang làm rõ tài xế xe múc này có hay không hành vi giết người.

Vụ việc đang được các cơ quan chức năng điều tra làm rõ.

Đối diện với những tội danh nào?

Theo Luật sư Đặng Văn Cường - Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp, hành vi của người lái xe máy xúc là nguy hiểm cho xã hội, làm hư hỏng tài sản và có thể nguy hiểm đến tính mạng của người lái xe, bởi vậy Cơ quan điều tra sẽ vào cuộc xác minh làm rõ để xử lý về hành vi hủy hoại tài sản và giết người. 

"Khi xem clip này, chắc hẳn ai cũng sẽ rùng mình bởi hành vi có tính chất côn đồ, tàn nhẫn, coi thường pháp luật của người lái máy xúc. Hành vi của người lái máy xúc này trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác và có thể tước đoạt tính mạng của người lái xe. Bởi vậy người này sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Hủy hoại tài sản" và tội "Giết người" mặc dù nạn nhân không chết", Luật sư Cường nhận định.

Cơ quan điều tra sẽ vào cuộc xác minh làm rõ nguyên nhân sự việc, tiến hành định giá thiệt hại của ô tô, đồng thời đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi này đối với nạn nhân để xử lý theo quy định của pháp luật. Khi có kết quả định giá tài sản, có đầy đủ các căn cứ cấu thành tội phạm thì Cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án hình sự về tội "Hủy hoại tài sản" theo Điều 178 Bộ luật Hình sự và khởi tố bị can đối với người lái máy xúc.

Luật sư Cường cho rằng dù bất cứ lý do gì, cho dù mâu thuẫn như thế nào chăng nữa thì hành vi sử dụng máy xúc để làm hư hỏng xe ô tô của người khác cũng là hành vi vi phạm pháp luật. Người lái máy xúc này biết rõ hành vi của mình có thể gây hủy hoại, làm hư hỏng chiếc xe ô tô nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi, mong muốn hậu quả hư hỏng xảy ra nên người này sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Trường hợp kết quả định giá cho thấy chiếc xe này bị hư hỏng hoàn toàn phải không thể phục hồi được nữa và trị giá chiếc xe từ 500.000.000 đồng trở lên thì người đàn ông này sẽ phải đối mặt với khung hình phạt là phạt tù 10 năm đến 20 năm theo khoản 4, Điều 178 Bộ luật Hình sự. Trường hợp tài sản thiệt hại trị giá từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng thì hình phạt sẽ là phạt tù từ 5 năm đến 10 năm.

Ngoài hành vi hủy hoại, cố ý làm hư hỏng tài sản thì người đàn ông này còn có hành vi có thể tước đoạt tính mạng của nạn nhân. Vì vậy, Cơ quan điều tra sẽ làm rõ hành vi này, nếu người này nhận thức được hành vi của mình có thể dẫn đến chết người nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi hoặc Cơ quan điều tra có căn cứ cho thấy hành vi của người này với mục đích giết người, có thể dẫn đến chết người thì sẽ xử lý hình sự thêm về tội "Giết người" theo Điều 123 Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung hình phạt là có tính chất côn đồ. Với hành vi này thì tài xế máy xúc sẽ phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Luật sư Cường chia sẻ thêm, thời gian gần đây liên tục xảy ra những vụ giết người, hủy hoại tài sản có nguyên nhân từ những mâu thuẫn rất nhỏ nhặt. Hành vi này cho thấy văn hoá và đạo đức xã hội thấp kém hoặc đã xuống cấp trầm trọng ở một bộ phận trong xã hội. Nhiều người vì ghen tuông, ích kỷ cá nhân, vì nóng giận mà sẵn sàng bất chấp pháp luật, coi thường tính mạng của người khác. Để bảo vệ tốt hơn nữa tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân, giảm thiểu những vụ án đau lòng như vậy thì cần phải tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật đồng thời giáo dục đạo đức văn hóa, ý thức tôn trọng tính mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm tài sản của người khác, tôn trọng cộng đồng. Chỉ khi nào đạo đức, ý thức, văn hóa của người dân được nâng lên, pháp luật được phổ biến và tôn trọng thì khi đó mới giảm thiểu những vụ việc có tính chất côn đồ, manh động, xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, tài sản của người khác như vụ án này. 

TIẾN HƯNG

Bàn về quy định tại Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao

2. Bộ Chính trị yêu cầu bố trí ngân sách để thực hiện cải cách tiền lương

(LSVN) - Đây là nội dung đáng chú ý tại Kết luận 28-KL/TW ngày 21/02/2022 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Ảnh minh họa.

Theo đó, Bộ Chính trị yêu cầu quan tâm bố trí ngân sách nhà nước để thực hiện cải cách tiền lương, tạo động lực cho cán bộ, công chức, viên chức dưỡng liêm, toàn tâm, toàn ý với công việc. Có chính sách phù hợp đối với những cán bộ, công chức chịu tác động trực tiếp trong quá trình thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế.

Bên cạnh đó, Bộ Chính trị cũng yêu cầu thực hiện tinh giản biên chế có trọng tâm, trọng điểm, không cào bằng và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị. Tiếp tục tinh giản biên chế đối với các bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa hoàn thành mục tiêu theo Nghị quyết 39-NQ/TW.

Giai đoạn 2022 - 2026 cơ bản không tăng biên chế cán bộ, công chức và thực hiện giảm 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2021; chỉ được tăng biên chế cán bộ, công chức khi thành lập tổ chức mới hoặc tổ chức, cơ quan, đơn vị được cấp có thẩm quyền giao thêm nhiệm vụ.

Gắn tinh giản biên chế với đổi mới tổ chức bộ máy, cải cách chế độ tiền lương, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thu hút người có đức, có tài vào làm việc trong hệ thống chính trị.

Ngoài ra, thực hiện sửa đổi, bổ sung các quy định xác định biên chế giáo viên trong năm 2022 phù hợp với điều kiện thực tế của vùng, miền, địa phương để nâng cao chất lượng giáo dục, giảm biên chế giáo viên.

Tập trung nghiên cứu, ban hành các quy định, chính sách phù hợp để đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công, nhất là giáo dục, y tế... ở các thành phố, đô thị lớn, những nơi có số cơ học tăng nhanh.

HÀ ANH

Khởi tố bổ sung các bị can trong vụ án xảy ra tại Tổng Công ty Sản xuất – Xuất nhập khẩu Bình Dương

3. Quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi

(LSVN) - Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.

Ảnh minh họa.

Vừa qua, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Trong đó, quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi.

Cụ thể, việc lấy lời khai người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại Điều 188, Điều 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018.

Trường hợp người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi có biểu hiện bất thường, hoảng loạn về tâm lý, Điều tra viên có thể mời thêm người thân trong gia đình, đại diện nhà trường, chuyên gia tâm lý, đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc các tổ chức, cá nhân khác tham gia khi lấy lời khai để phối hợp hỗ trợ ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục. Người được mời tham gia có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ Điều tra viên ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục và phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc lấy lời khai.

Hoạt động lấy lời khai người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại các điều 183, 186, 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018 và quy định tương ứng tại khoản 1 Điều này.

Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lấy lời khai, hỏi cung của Điều tra viên; nếu thấy lời khai chưa rõ, còn mâu thuẫn, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thì yêu cầu Điều tra viên lấy lời khai, hỏi cung bổ sung; nếu phát hiện có vi phạm trong việc lấy lời khai, hỏi cung thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục ngay. Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của Kiểm sát viên. Nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp lấy lời khai, hỏi cung. Điều tra viên có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để Kiểm sát viên lấy lời khai, hỏi cung theo quy định pháp luật.

Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.

TIẾN HƯNG

4. Theo dõi sức khỏe trẻ mắc Covid-19 như thế nào?

(LSVN) - Được biết, Bộ Y tế vừa ban hành "Hướng dẫn chăm sóc tại nhà đối với trẻ em mắc Covid-19". Vậy, việc theo dõi sức khỏe trẻ mắc Covid-19 như thế nào? Bạn đọc V.Q. hỏi.

Ảnh minh họa.

Theo hướng dẫn, đối với trẻ dưới 5 tuổi: Theo dõi các dấu hiệu tinh thần, đếm nhịp thở, mạch, đo SpO2 (nếu có máy đo), bú/ăn, đo thân nhiệt ít nhất 2 lần/ngày, màu sắc da, niêm mạc, rối loạn tiêu hóa.

Phụ huynh cần theo dõi các triệu chứng bất thường. Khi có bất kỳ một trong các dấu hiệu sau cần báo nhân viên y tế hoặc đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để khám, chữa bệnh:

- Tinh thần: Trẻ quấy khóc không chịu chơi, không hóng chuyện hoặc li bì, co giật

- Sốt cao liên tục >39 độ C và khó hạ thân nhiệt bằng các phương pháp như dùng thuốc hạ sốt + chườm/lau người bằng nước ấm; hoặc sốt không cải thiện sau 48 giờ;

- Trẻ thở nhanh hơn so với tuổi: Trẻ < 2 tháng khi thở ≥ 60 lần/phút; trẻ từ 2 tháng đến < 12 tháng khi thở ≥ 50 lần/phút; trẻ từ 12 tháng đến < 5 tuổi khi thở ≥ 40 lần/phút.

- Trẻ thở bất thường: Khó thở, thở phập phồng cánh mũi, co kéo hõm ức, cơ liên sườn...; dấu hiệu mất nước: môi se, mắt trũng, khát nước, đái ít...; tím tái.

- SpO2 < 96% (nếu có máy đo SpO2); nôn mọi thứ; trẻ không bú được hoặc không ăn, uống được; trẻ mắc thêm các bệnh khác như: sốt xuất huyết, tay chân miệng...; bất kỳ tình trạng bất ổn nào của trẻ em mà thấy cần cấp cứu.

Đối với trẻ từ 5 tuổi trở lên: Cha mẹ cần theo dõi các dấu hiệu: tinh thần, đếm nhịp thở, mạch, đo SpO2 (nếu có máy đo), đo thân nhiệt ít nhất 2 lần/ngày, màu sắc da, niêm mạc, ăn uống, đau ngực, đau bụng, rối loạn tiêu hóa, mất khứu giác, thính giác.

Triệu chứng bất thường cần báo nhân viên y tế hoặc đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để khám, chữa bệnh khi có bất kỳ một trong các dấu hiệu sau:

Cảm giác khó thở; ho thành cơn không dứt; không ăn/uống được; sốt cao không giảm hay sốt không cải thiện sau 48 giờ; nôn mọi thứ; đau tức ngực; tiêu chảy; trẻ mệt, không chịu chơi; SpO2 < 96% (nếu có máy đo SpO2 ); thở nhanh: Nhịp thở của trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi: ≥ 30 lần/phút, trẻ từ 12 tuổi: ≥ 20 lần/phút; thở bất thường: co kéo hõm ức, liên sườn...; bất kỳ tình trạng bất ổn nào của trẻ em mà thấy cần cấp cứu.

Các gia đình có trẻ em mắc Covid-19 chăm sóc tại nhà cần có điện thoại, số điện thoại của các cơ sở y tế (trạm y tế, trung tâm y tế quận, huyện, trung tâm vận chuyển cấp cứu, bác sỹ, tổ tư vấn cộng đồng, tổ phản ứng nhanh...) để liên lạc, xử trí khi có tình trạng cấp cứu.

VĂN QUANG

Thực hiện dự án xử lý rác thải có phải thành lập doanh nghiệp không?

5. Thủ tướng: Cơ quan nào làm tốt nhất thì giao việc

(LSVN) - Nêu rõ quan điểm cơ quan nào làm tốt nhất thì giao việc, Thủ tướng yêu cầu tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong xây dựng pháp luật, thực tiễn cho thấy nếu đồng chí bộ trưởng, trưởng ngành trực tiếp chỉ đạo, các bộ trưởng liên quan tăng cường phối hợp, hỗ trợ thì công việc sẽ trôi chảy, hiệu quả, vừa bảo đảm tiến độ, vừa nâng cao chất lượng các dự án luật.

Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Kết luận phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. Theo đó, Thủ tưởng nhấn mạnh, việc xây dựng pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. 

Thủ tướng yêu cầu việc xây dựng pháp luật phải huy động mọi nguồn lực vào phát triển; bao quát được tất cả các đối tượng mà luật điều chỉnh; phân cấp, phân quyền, đi đôi với kiểm tra, giám sát và phân bổ nguồn lực; giảm được thủ tục hành chính, đảm bảo việc thực hiện pháp luật có hiệu quả nhất.

Các cơ quan cần tiếp tục rà soát các quy định pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý, kịp thời sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định; giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, những vấn đề mới phát sinh nổi lên, những vấn đề chưa có quy định hoặc đã có quy định nhưng lạc hậu với tình hình.

Thủ tướng lưu ý cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, phân bổ nguồn lực hợp lý và nâng cao năng lực cán bộ thực thi; cố gắng cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tinh thần là một việc chỉ cần một cơ quan giải quyết một lần, tránh một việc phải nhiều cơ quan giải quyết và giải quyết nhiều lần.

Nêu rõ quan điểm cơ quan nào làm tốt nhất thì giao việc, Thủ tướng yêu cầu tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong xây dựng pháp luật, thực tiễn cho thấy nếu đồng chí bộ trưởng, trưởng ngành trực tiếp chỉ đạo, các bộ trưởng liên quan tăng cường phối hợp, hỗ trợ thì công việc sẽ trôi chảy, hiệu quả, vừa bảo đảm tiến độ, vừa nâng cao chất lượng các dự án luật.

Người đứng đầu Chính phủ lưu ý, khi gửi xin ý kiến các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo cần nêu rõ nội dung nào mới, nội dung nào còn có nhiều ý kiến khác nhau, nội dung nào cần có ý kiến thêm để các bộ ngành tập trung góp ý.

“Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mọi người dân, tổ chức, doanh nghiệp sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; việc xây dựng pháp luật là việc khó, đòi hỏi nhiều công sức, trí tuệ, do đó cần có cơ chế, chính sách đầu tư thỏa đáng cho công tác này”, Thủ tướng chỉ rõ.

HÀ ANH

Quy trình đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản

Admin