TRỰC 01/5

26/04/2022 07:44 |3 năm trước

(LSVN) -

 

12. Tăng giá dịch vụ du lịch dịp nghỉ lễ bị xử lý ra sao?

(LSVN) - Tình trạng không niêm yết giá công khai, tăng giá, không bán đúng giá niêm yết dịch vụ du lịch vào dịp nghỉ lễ nói chung và dịp cao điểm nghỉ lễ 30/4- 01/5 nói riêng xuất hiện khá phổ biến hiện nay. Vậy theo quy định của pháp luật, hành vi tăng giá dịch vụ du lịch dịp nghỉ lễ bị xử lý như thế nào?

Ảnh minh họa.

Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Thị Kiều Trang, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, Điều 10 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 21/5/2019 quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch như sau: Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi không niêm yết công khai giá hàng hóa, dịch vụ. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi bán không đúng giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ trong cơ sở lưu trú du lịch.

Điều 13 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch khác như sau: Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi không niêm yết công khai giá bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định; Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi không bán đúng giá niêm yết. Ngoài ra, người vi phạm còn bị buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ hành vi vi phạm.

Nghị định số 45/2019/NĐ-CP không giải thích rõ thuật ngữ “kinh doanh dịch vụ du lịch khác” được hiểu như thế nào. Nhưng theo nhận thức thông thường, thì kinh doanh dịch vụ du lịch khác có thể hiểu là những dịch vụ ăn theo điểm du lịch và diễn ra tại điểm du lịch bao gồm: Bán vé thăm quan điểm du lịch, cho thuê quần áo, ăn uống, xe điện, cáp treo, chụp ảnh…

Điều 5 của Nghị định số 45/2019/NĐ-CP quy định: Mức phạt tiền tại điều 10 và 13 là mức phạt áp dụng đối với cá nhân, trường hợp tổ chức vi phạm với hành vi tương ứng thì mức phạt gấp 02 lần cá nhân.

Trường hợp phát hiện vi phạm thì du khách có thể báo cáo sự việc đến Chủ tịch UBND cấp xã nơi có điểm du lịch, trong trường hợp mức phạt tiền đến 5.000.000 đồng hoặc báo đến Chủ tịch UBND cấp huyện nơi có điểm du lịch, nếu mức phạt tiền đến 25.000.000 đồng để được giải quyết theo quy định của pháp luật.

HỒNG HẠNH

Người lao động nhận tiền lương đi làm dịp lễ thế nào?

11. Xây dựng quy trình ‘chuẩn’ trong đấu thầu mua sắm tài sản công

(LSVN) - Có thể nói, việc đấu thầu mua sắm tài sản công và quản lý, sử dụng tài sản công thời gian vừa qua có nhiều yếu kém, bất cập dẫn đến nhiều vụ vi phạm pháp luật xảy ra trong lĩnh vực này. Nhiều vụ việc sai phạm rất nghiêm trọng gây thất thoát, lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước, nhất là việc đấu thầu mua sắm tài sản công.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nguyên nhân chủ quan là do sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ, công chức, người được giao quyền thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản công dẫn đến thất thoát, tham nhũng. Tuy nhiên, cũng có nguyên nhân khách quan, đó là một số quy định pháp luật trong lĩnh vực này chưa chặt chẽ, rõ ràng, chồng chéo, bất cập gây khó khăn rất lớn trong việc đấu thầu mua sắm tài sản công. Đặc biệt là các gói thầu mua sắm lớn, gồm nhiều mặt hàng, trang thiết bị phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan, đơn vị, nhất là liên quan đến trang thiết bị y tế, giáo dục... 

Minh chứng là nhiều vụ việc được xác định không có bất cứ hành vi tham nhũng, tiêu cực hay lợi ích nhóm, vụ lợi cá nhân nào nhưng vẫn xảy ra thiếu sót, sai phạm. Thậm chí, nhiều cơ quan, tổ chức đã được phân bổ kinh phí nhưng không dám mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác vì sợ sai phạm, do pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể, thiếu quy định, hướng dẫn chi tiết.

Hiện nay, nhiều cơ quan, đơn vị mua sắm tài sản công có cùng chủng loại, mặt hàng như nhau nhưng mỗi nơi áp dụng, thực hiện quy trình mua sắm mỗi kiểu, nhất là việc khảo sát giá, áp giá, cách tính chi phí thực tế... khác nhau. Hay tình trạng một địa phương đã làm rồi thì các địa phương khác "bắt chước" làm theo đồng loạt. Vì thế, nếu xảy ra sai phạm thường xảy ra hàng loạt, nhiều cán bộ liên quan bị xử lý, dù nhiều người không phải thực hiện hành vi tham nhũng, vụ lợi nên rất đau lòng!

Do đó, để giải quyết triệt để tình trạng thất thoát, tham nhũng, tiêu cực cũng như hạn chế bất cập, chồng chéo do quy định pháp luật gây ra trong hoạt động này, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành quy trình thống nhất về đấu thầu mua sắm tài sản công cụ thể, rõ ràng để triển khai trên toàn quốc. Theo đó, các ngành, lĩnh vực tương đồng về chức năng, nhiệm vụ sẽ có bộ quy chuẩn để mua sắm tài sản, trang thiết bị phục vụ cho công tác, hoạt động trong lĩnh vực của mình. Các đơn vị liên quan cứ theo quy trình đó áp dụng một cách đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến các địa phương. 

Ngoài ra, cần sớm triển khai việc mua sắm tập trung, công khai, minh bạch đối với tất cả các loại hàng hóa, sản phẩm có nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, chương trình, dự án được viện trợ từ nước ngoài. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền quản lý, kiểm soát tài sản công phải định kỳ ban hành quy trình cụ thể để hướng dẫn việc thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản công. Từ việc thông báo giá hàng tháng, thậm chí hàng tuần một cách chính xác, kịp thời cho đến việc lập dự toán, lập hồ sơ mời thầu, khảo sát giá, áp giá và việc thanh, quyết toán… Tuyệt đối không nên để các địa phương, đơn vị tự "mày mò" rồi triển khai không thống nhất, mỗi nơi một kiểu, tùy tiện, sai quy định dẫn đến hành vi sai phạm gây thất thoát, lãng phí...

Có như vậy, mới ngăn chặn, hạn chế, xử lý triệt để tình trạng sai phạm trong đấu thầu mua sắm tài sản công hiện nay. Đặc biệt chỉ vì thiếu quy định chi tiết, quy trình chặt chẽ, cụ thể, khoa học mà đã gây khó khăn cho các địa phương, đơn vị khi đấu thầu mua sắm tài sản công, nhất là nhiều trường hợp "dính" sai phạm dù họ không cố ý làm sai hay vụ lợi gì./. 

Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Hạn chế tối đa việc giao cho bộ, ngành hướng dẫn luật

10. Xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức

(LSVN) - Để tiếp tục phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức.

Vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 26/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, để tiếp tục phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức.

Cụ thể, Bộ Công an tổ chức triển khai Quyết định số 1911/QĐ-TTg ngày 15/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện kết nối, chia sẻ giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 theo kế hoạch đã được phê duyệt.

Bộ Nội vụ triển khai xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức, trong cơ quan nhà nước để quản lý đồng bộ, thống nhất, minh bạch, kịp thời tạo nguồn dữ liệu cốt lõi cho phát triển Chính phủ số.

Thời hạn hoàn thành: tháng 12 năm 2022; tổ chức triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030, gắn kết chặt chẽ với phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.

Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông đánh giá sơ kết tình hình triển khai đô thị thông minh tại Việt Nam, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Thời hạn hoàn thành tháng 6 năm 2022.

Ban Cơ yếu Chính phủ đảm bảo cung cấp đầy đủ và kịp thời chứng thư số chuyên dùng Chính phủ cho các cơ quan bộ, ngành, địa phương; hướng dẫn, hỗ trợ sử dụng ký số dữ liệu số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính tại Bộ phận Một cửa.

Đến tháng 6 năm 2022 đảm bảo cấp 100% chứng thư số cho Bộ phận Một cửa cấp bộ, tỉnh; tháng 12 năm 2022 đảm bảo cấp 100% chứng thư số cho Bộ phận Một cửa cấp huyện; tháng 6 năm 2023 đảm bảo cấp 100% chứng thư số cho Bộ phận Một cửa cấp xã. Trong đó, đến ngày 01 tháng 7 năm 2022, cấp đủ 100% chứng thư số cho cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp liên quan đến số hóa 25 dịch vụ công thiết yếu theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022.

VĂN QUANG

Người lao động có thể nộp trực tuyến hồ sơ hỗ trợ tiền thuê nhà

9.  Tích cực làm từ thiện có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không?

(LSVN) - Vừa qua, Công an tỉnh Bình Dương ra quyết định khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can với bà Nguyễn Phương Hằng vì hành vi “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Vậy theo quy định của pháp luật, liệu bà Nguyễn Phương Hằng có được xem xét giảm nhẹ tội trong quá trình điều tra, tố tụng khi đã làm từ thiện rất nhiều trong những năm qua hay không?

Liên quan đến vấn đề này, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết, theo quy định của pháp luật thì có nhiều tình tiết được quy định để có thể giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo khi Tòa án lượng hình trong đó có thể kể đến như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; có thành tích suất sắc trong học tập, lao động, công tác...

Cụ thể các trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo đó, bao gồm các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

- Phạm tội do lạc hậu;

- Người phạm tội là phụ nữ có thai;

- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

- Người phạm tội tự thú;

- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

- Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Bộ luật Hình sự cũng quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì người phạm tội có thành tích suất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác thì được coi là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán trước đây thì được coi là thành tích suất sắc như sau: "Người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác là người được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng khen, bằng lao động sáng tạo hoặc có sáng chế phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sỹ thi đua…“.

Theo quy định của pháp luật thì khi quyết định hình phạt Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 

Điều 50. Căn cứ quyết định hình phạt

1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.

Vì vây, nếu bị can có một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng lại có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc xét thấy tính chất mức độ của hành vi vi phạm là đặc biệt nghiêm trọng thì bị can, bị cáo vẫn phải chịu mức chế tài nghiêm khắc của pháp luật

"Trong trường hợp bà Hằng bị kết tội nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, có căn cứ cho thấy trước đây bà Hằng đã thực hiện các hoạt động từ thiện được nhiều cơ quan tặng thưởng giấy khen thì có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. Ngoài ra trường hợp bị cáo được xác định là người thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho nạn nhân thì cũng được xem xét là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Việc quyết định hình phạt cụ thể sẽ căn cứ vào nhiều yếu tố trong đó các tình tiết giảm nhẹ chỉ là một trong các yếu tố quyết định đến loại hình phạt và mức hình phạt", Luật sư Cường phân tích rõ.

TIẾN HƯNG

Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn và không có lãi

8. Đề xuất mua clip của người dân để xử phạt vi phạm: Không khả thi và phát sinh nhiều vấn đề

(LSVN) - Đề xuất mua clip của người dân (trả tiền cho người cung cấp clip vi phạm giao thông) để xử phạt vi phạm giao thông theo nội dung clip mà người dân cung cấp sẽ không khả thi và phát sinh nhiều vấn đề xã hội.

Ảnh minh họa.

Theo quy định pháp luật hiện nay thì Cảnh sát giao thông được quyền tiếp nhận những tin báo về hành vi vi phạm giao thông qua clip, hình ảnh mà người dân cung cấp hoặc qua các thông tin trên báo chí, mạng xã hội... làm căn cứ xác minh hành vi vi phạm, nếu thông tin là chính xác thì có thể phạt nguội. Đây là quy định mới từ năm 2020, là cơ sở để xử lý đối với các trường hợp vi phạm giao thông hiện nay. Thực tiễn cho thấy, rất nhiều trường hợp đi ngược chiều, vượt đèn đỏ, gây tai nạn giao thông được người dân ghi lại và cung cấp cho Cảnh sát giao thông hoặc đăng tải trên mạng xã hội, sau đó Cảnh sát giao thông xác minh thông tin, có căn cứ xác định có hành vi vi phạm và đã xử lý vi phạm. Việc này góp phần đảm bảo trật tự an toàn giao thông, xác định lỗi trong các tình huống vi phạm về giao thông, làm cơ sở để tiến hành các biện pháp xử lý vi phạm về giao thông đường bộ theo quy định pháp luật.

Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn xử lý vi phạm giao thông là phạt nguội từ thông tin, tin báo của quần chúng nhân dân thì đề xuất mua clip về tình huống vi phạm để xử phạt vi phạm giao thông cũng là vấn đề dễ hiểu. Khi có thêm các thông tin về những hành vi vi phạm giao thông đường bộ, đặc biệt là những hành vi vi phạm nghiêm trọng có thể dẫn đến những vụ tai nạn giao thông thì việc xử lý vi phạm sẽ triệt để hơn, có căn cứ hơn, góp phần tích cực trong việc đảm bảo trật tự, an toàn giao thông. Khi có quy định về bất kỳ người dân nào cũng có quyền ghi hình clip vi phạm để bán được tiền cho cơ quan chức năng, hành vi vi phạm ở đâu phải lúc nào cũng có thể bị phát hiện và xử lý thì những hành vi vi phạm có thể giảm đi, có thể tạo ra những hiệu ứng tích cực cho xã hội.

Tuy nhiên, khi quy định vấn đề này thì cũng có rất nhiều vấn đề phát sinh cần được giải quyết như: giá cả clip được tính như thế nào, phụ thuộc vào độ dài của clip, chất lượng clip hay phụ thuộc và nội dung vụ việc? Trường hợp cùng một vụ việc nhưng nhiều người ghi clip thì sẽ mua của ai? Nếu cơ quan chức năng từ chối mua clip của người dân có bị khiếu kiện hay không? Nếu giá tiền mà nhà nước chi ra để trả cho người có clip là đáng kể thì rất có thể nhiều người sẽ sống bằng nghề ghi clip, khi đó quên hình ảnh của cá nhân có thể sẽ bị xâm phạm, bị lợi dụng? Clip chỉ có ý nghĩa khi ghi lại sự việc, hành vi vi phạm giao thông. Khi hành vi đã diễn ra rồi thì việc ghi clip sẽ không có nhiều ý nghĩa. Người có clip không thể biết là người tham gia giao thông có sắp vi phạm hay không, bởi vậy có thể họ sẽ chủ động ghi clip của nhiều người trên đường. Có những tình huống, những hoàn cảnh, những góc nhìn có thể xâm phạm quyền riêng tư, nếu những thông tin đó không được kiểm soát tốt sẽ có thể phát sinh nhiều vấn đề xã hội,...

Thực tế tình trạng giao thông ở Việt Nam hiện nay thì những hành vi vi phạm giao thông như vượt đèn đỏ, đi sai làn đường, đi quá tốc độ, chuyển hướng không bật đèn tín hiệu diễn ra rất phổ biến. Các camera giám sát trên đường giao thông, ở các ngã tư, ngã ba ghi lại rất nhiều trường hợp vi phạm giao thông nhưng chưa được xem xét xử lý. Nếu lực lượng chức năng có đủ người, đủ phương tiện kĩ thuật, có thời gian thì chỉ cần khai thác những tình huống vi phạm giao thông ở các camera giám sát trên đường giao thông hiện nay là đã có khối lượng công việc khổng lồ, rất nhiều căn cứ để xử lý vi phạm, phạt nguội. Khi những tình huống đó, những dữ liệu đó chưa được xem xét xử lý thì việc mua thêm clip của người dân để xử lý phạt nguội sẽ là không phù hợp với thực tiễn và thiếu tính khả thi.

Việc ngân sách phải chi ra một khoản chi phí để mua clip vi phạm của người dân sẽ dẫn đến nhiều xáo trộn trong đời sống xã hội, có thể giảm tải cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện nhưng sẽ tăng thời gian, công sức cho việc thẩm định xác minh tính chính xác của các clip, cũng có thể sẽ xảy ra những trường hợp clip dàn dựng, cắt ghép, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc xác minh, xử lý. Khi trong xã hội xuất hiện một lực lượng đông đảo đi "săn clip" vi phạm để bán lấy tiền có thể sẽ khiến những người thi hành công vụ trở nên lười nhác, thiếu trách nhiệm trong việc phát hiện, xử lý vi phạm...

Bởi vậy, theo quan điểm của cá nhân tôi thì trong bối cảnh kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay thì đề xuất mua clip của người dân để xử phạt vi phạm hành chính về giao thông là không khả thi, chưa cần thiết và có thể phát sinh nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội.

Tiến sĩ, Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG

Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp

Trả tiền cho người cung cấp thông tin vi phạm giao thông là khả thi, hợp lý!

7. Đề xuất 6 chính sách trong dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ

(LSVN) - Bộ Công an đang đề nghị xây dựng dự án Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Trong đó, Bộ đề xuất 6 chính sách trong dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, qua quá trình lập hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật, Bộ Công an xác định có 6 chính sách trong dự án Luật được đánh giá tác động, bao gồm:

Chính sách 1: Quy tắc giao thông đường bộ.

Chính sách 2: Điều kiện phương tiện tham gia giao thông đường bộ và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

Chính sách 3: Chỉ huy, điều khiển giao thông bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Chính sách 4: Giải quyết tai nạn giao thông đường bộ.

Chính sách 5: Tuần tra, kiểm soát về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Chính sách 6: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Theo Bộ Công an, thời gian qua việc triển khai thực hiện Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, sau một thời gian dài phát sinh nhiều tồn tại, hạn chế, không phù hợp với tình hình thực tế, đòi hỏi khách quan phải có những đạo luật thay thế, điều chỉnh từng lĩnh vực.

Việc xây dựng Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ để điều chỉnh chuyên sâu các nội dung về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, tách bạch với lĩnh vực đầu tư, xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, vận tải đường bộ, trên cơ sở kế thừa Luật Giao thông đường bộ năm 2008, luật hóa một số quy định ở các văn bản dưới luật và bổ sung một số quy định mới, tạo ra một hành lang pháp lý để giải quyết những vấn đề cấp bách thực tiễn đang đặt ra trong tình hình hiện nay về trật tự, an toàn giao thông là rất cần thiết.

MAI HUỆ

Xây dựng dự án Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ

6. Chủ động dự báo, kịp thời ban hành các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật

(LSVN) - Đây là một trong các nhiệm vụ, giải pháp được nêu ra tại Kết luận số 34 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030.

Với mục tiêu tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết, thống nhất và giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn, kiên quyết xử lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị.

Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; bổ sung, hoàn thiện phương pháp, nội dung công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới.

Đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, nhân rộng, kịp thời phát hiện thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm khi có vi phạm.

Để thực hiện các mục tiêu đề ra, một trong các nhiệm vụ, giải pháp được nêu ra là chủ động dự báo, kịp thời ban hành các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật. Cụ thể, đầu tư nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chủ động dự báo sớm, cung cấp cơ sở khoa học để kịp thời tham mưu cho Đảng về các chủ trương, đường lối, giải pháp có tính chiến lược trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Chủ động nghiên cứu, tham mưu, ban hành các văn bản của Đảng bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, đồng thời tăng cường trách nhiệm, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Ngoài ra, kịp thời thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong thực hiện quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, khuyết điểm; phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực.

Tập trung xây dựng, hoàn thiện các quy định về cơ chế phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, việc thực thi quyền lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý; quy định các hành vi vi phạm, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cơ chế về kiểm soát tài sản, thu nhập, quyền lực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán…

Bên cạnh đó, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ trong hoạt động của ngành Kiểm tra. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật từ Trung ương đến cơ sở phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nghiên cứu, dự báo, tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật.

HỒNG HẠNH

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đối với công tác kiểm tra, giám sát

5. Mức trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán

(LSVN) - Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 24/2022/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 48/2019/TT-BTC hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp.

Trong đó, Thông tư nêu rõ, mức trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán được tính theo công thức sau:

Đối với chứng khoán đã niêm yết (bao gồm cả cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, chứng khoán phái sinh, chứng quyền có đảm bảo đã niêm yết): giá chứng khoán thực tế trên thị trường được tính theo giá đóng cửa tại ngày gần nhất có giao dịch tính đến thời điểm lập báo cáo tài chính năm.

Đối với cổ phiếu đã đăng ký giao dịch trên thị trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết và các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa dưới hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng (Upcom) thì giá chứng khoán thực tế trên thị trường được xác định là giá tham chiếu bình quân trong 30 ngày giao dịch liền kề gần nhất trước thời điểm lập báo cáo tài chính năm do Sở Giao dịch chứng khoán công bố.

Đối với trái phiếu doanh nghiệp đã niêm yết, đăng ký giao dịch, giá trái phiếu trên thị trường là giá giao dịch gần nhất tại Sở Giao dịch chứng khoán trong vòng 10 ngày tính đến thời điểm lập báo cáo tài chính. Trường hợp không có giao dịch trong vòng 10 ngày tính đến thời điểm lập báo cáo tài chính năm thì doanh nghiệp không thực hiện trích lập dự phòng đối với khoản đầu tư này.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/5/2022.

Số dư dự phòng các khoản đầu tư trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương mà doanh nghiệp đã trích lập đến trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực thi hành (nếu có) được hoàn nhập, ghi giảm chi phí tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm 2022.

MAI HUỆ

Đối tượng lập dự phòng tổn thất đầu tư chứng khoán

1. Danh mục bí mật nhà nước độ mật lĩnh vực kiểm toán

(LSVN) - Ngày 22/4/2022, Thủ tướng ban hành Quyết định 504/QĐ-TTg về Danh mục bí mật nhà nước thuộc lĩnh vực kiểm toán.

Theo đó, tại Điều 1 Quyết định nêu rõ, bí mật nhà nước độ mật gồm:

- Nội dung kết luận, kiến nghị xử lý của Kiểm toán nhà nước đối với vụ việc có dấu hiệu tội phạm nghiêm trọng được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán.

- Nội dung kết luận, kiến nghị xử lý của Kiểm toán nhà nước đối với vụ việc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán.

- Văn bản báo cáo, trao đổi của Kiểm toán nhà nước với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vụ việc có dấu hiệu tội phạm, tham nhũng nghiêm trọng được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán.

Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành và thay thế Quyết định số 1663/QĐ-TTg ngày 26/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục bí mật nhà nước thuộc lĩnh vực kiểm toán nhà nước.

Tổng Kiểm toán nhà nước chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành Quyết định này.

PHƯƠNG HOA

Bộ Y tế hướng dẫn khám, chữa bệnh cho người dân hậu Covid-19

2. Thực hiện kê khai, nộp thuế cho văn phòng đại diện như thế nào?

(LSVN) - Công ty tôi có trụ sở chính tại tỉnh Hưng Yên, văn phòng đại diện tại TP. Hà Nội. Văn phòng đại diện chỉ là địa điểm cho nhân viên ngồi làm việc, không có chức năng kinh doanh, không bổ nhiệm bất kỳ chức danh gì liên quan, các khoản trích theo lương của nhân viên tại đây vẫn nộp về BHXH Hưng Yên. Vậy, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của nhân viên làm việc tại văn phòng đại diện sẽ nộp về cơ quan thuế Hà Nội hay Hưng Yên?

Liên quan đến vấn đề này, theo Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính căn cứ quy định tại Điều 19 Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29/9/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định  số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế, thì trường hợp doanh nghiệp có thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh tại tỉnh khác với nơi người nộp thuế đóng trụ sở chính và doanh nghiệp chi trả tập trung cho người lao động làm việc tại chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh này thì doanh nghiệp phải:

- Khấu trừ thuế và kê khai thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tập trung tại trụ sở chính;

- Phải lập bảng phân bổ thuế cho các địa phương nơi người lao động làm việc;

- Nộp hồ sơ khai thuế, bảng phân bổ cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp trụ sở chính.

Như vậy, doanh nghiệp chi trả thuế TNCN cho người lao động làm việc tại văn phòng đại diện tại Hà Nội thì doanh nghiệp nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan thuế Hưng Yên là cơ quan thuế quản lý trực tiếp doanh nghiệp và phân bổ thuế, nộp tiền vào ngân sách Nhà nước cho TP. Hà Nội nơi có người lao động làm việc tại văn phòng đại diện tại Hà Nội.

HỒNG HẠNH

Không nên bỏ thanh tra cấp huyện

3. Điều kiện giải thể doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

(LSVN) - Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 23/2022/NĐ-CP ngày 05/4/2022 về thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Vậy theo quy định mới này, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bị xem xét giải thể trong các trường hợp nào?

Ảnh minh họa.

Căn cứ Điều 39 Nghị định 23/2022/NĐ-CP, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bị xem xét giải thể trong các trường hợp sau:

- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác;

- Doanh nghiệp có dấu hiệu mất an toàn tài chính, được đặt vào tình trạng giám sát tài chính đặc biệt sau khi kết thúc thời hạn áp dụng phương án khắc phục, phương án cơ cấu lại mà không phục hồi được hoạt động sản xuất kinh doanh và không thực hiện được các hình thức chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại khác theo quy định của pháp luật;

- Không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước giao trong thời gian 02 năm liên tiếp sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết;

- Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp là không cần thiết;

- Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quy định gia hạn.

Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.

Việc giải thể doanh nghiệp phải phù hợp với văn bản về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trường hợp việc giải thể chưa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, cơ quan đại diện chủ sở hữu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định (trừ trường hợp doanh nghiệp giải thể khi bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quy định gia hạn).

Trường hợp không còn đáp ứng các điều kiện giải thể nêu trên hoặc đã lâm vào tình trạng phá sản thì cơ quan đại diện chủ sở hữu báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định sắp xếp theo hình thức khác hoặc thực hiện phá sản.

Nghị định 23/2022/NĐ-CP này có hiệu lực từ ngày 01/6/2022.

HỒNG HẠNH

Điểm mới về đăng ký, cấp biển số ô tô, xe máy từ 21/5

4. Thông báo rút kinh nghiệm vụ án 'Tranh chấp quyền sử dụng đất'

(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát xét xử giảm đốc thẩm đối với Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh VL giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn B. với bị đơn là bà Võ Thị X. đã có hiệu lực pháp luật, Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm.

Ảnh minh họa.

Nội dung vụ án:

Ngày 08/02/2007, ông Nguyễn Văn B. được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện BM cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) diện tích 5.712,6m2, thuộc thửa 294, tờ bản đồ số 2, ấp TT, xã TB, huyện BM, tỉnh VL (Thửa 294), nguồn gốc nhận thừa kế từ cụ Nguyễn Văn G. Trước đây, cụ G. cho bà Võ Thị X. và vợ chồng ông Bùi Văn D., bà Châu Thị U. ở nhờ một nền nhà 400m2 và mượn 02 liếp đất vườn khoảng 1.200m2 để canh tác trên Thửa 294.

Năm 2010, khi tiến hành đo đạc theo chương trình Vlap thì bà X., ông D., bà U. tranh chấp với ông B., yêu cầu ông B. phải tách quyền sử dụng đất cho bà X., ông D., bà U., ông B. yêu cầu Tòa án buộc bà Võ Thị X., ông Bùi Văn D., bà Châu Thị U. và các con của ông D., bà U. phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng 1.600m2 đất thuộc một phần Thửa 294 để trả lại cho gia đình ông.

Bà X., ông D., bà U. không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông B. với lý do nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ Nguyễn Văn Q. (ông nội của ông Nguyễn Văn B.) bán cho cụ Cao Thị K. (bà cố của ông Bùi Văn D.) từ năm 1940, khi cụ K. qua đời thì cụ Huỳnh Thị N. (bà nội của ông D.) tiếp tục canh tác, sau đó cụ Bùi Văn A. (cha ông D.) tiếp tục canh tác. Cụ Bùi Văn A. chết thì cụ Võ Thị X. (mẹ ông D.) và ông D. tiếp tục canh tác sử dụng cho đến nay.

Theo chương trình đo Vlap năm 2010, ông B. cho rằng đã có GCNQSDĐ nên đã chặt phá những cây gia đình bà X. trồng và trồng xen cây vào trên đất tranh chấp. Phần đất tranh chấp, cụ Bùi Văn A. có kê khai đăng ký sổ mục kê thửa 1564, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.200m2 và thửa 1566 diện tích 400m2 tờ bản đồ số 2 tại ấp TT, xã TB, huyện TB (nay là huyện BM), tỉnh VL. Bà X. yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ Thửa 294 đã cấp cho ông B., công nhận quyền sử dụng thửa đất 1564 và thửa đất 1566 cho ông D.

UBND huyện BM trình bày: Thửa 294 hình thành năm 1991 gồm 03 thửa 1564, 1655, 1656. Ngày 31/3/1991, cụ Nguyễn Văn G. xin cấp quyền sử dụng Thửa 294 và được Hội đồng đăng ký đất của xã xét cấp. Ngày 01/10/1996, UBND huyện BM cấp GCNQSDĐ Thửa 294, diện tích 6.300m2 cho cụ G. Năm 2005, cụ G. để lại thừa kế cho ông B. Năm 2007, ông B. được cấp GCNQSDĐ Thửa 294 diện tích 5.712,6m2.

Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án số 40/2018/DS-ST, ngày 08/11/2018, TAND huyện BM, tỉnh VL (Bản án sơ thẩm), đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B. buộc bà X., ông D., bà U. và các con của ông D. và bà U. phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng đất chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2; chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Văn D.: Hủy một phần GCNQSDĐ thửa 294, diện tích 5,712m2, do ông B đứng tên quyền sử dụng đất. Công nhận cho ông D. các phần đất thuộc: Chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2, chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2. Công nhận phần cây trồng cho ông Bùi Văn D. được quyền sử dụng nhưng hoàn lại giá trị cây trồng cho ông Nguyễn Văn B. là 9.460.000 đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ngày 20/11/2018, ông Nguyễn Văn B. kháng cáo Bản án sơ thẩm.

Tại Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của TAND tỉnh VL (Bản án phúc thẩm), đã quyết định:

Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn B.: Sửa Bản án sơ thẩm Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B.

Công nhận ông B được quyền sử dụng phần đất chiết thửa 194-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2.

Buộc bà X., ông D., bà U. trả lại cho ông B. các phần đất thuộc chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).

Ông B. được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2. Buộc ông B có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho bà X., ông D., bà U. số tiền 7.175.000 đồng.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Bùi Văn D.

Công nhận cho bà X., ông D., bà U. được quyền sử dụng phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 (trong đó có 105,2m2 đất ở nông thôn và 45,2m2 đất trồng cây lâu năm) và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).

Buộc bà X., ông D. và bà U. có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 cho ông B. bằng số tiền 34.324.000 đồng.

Bà X., ông D., bà U. được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần đất chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2. Buộc bà X., ông D., bà U. có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho ông B. số tiền 2.325.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông B. đồng ý để ngôi mộ của ông Bùi Văn A. được tồn tại trên phần đất chiết thửa 294-3. Ông B. và các thành viên trong gia đình ông B phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để con cháu ông A. đi vào chăm sóc, viếng mộ ông A. theo phong tục tập quán.

Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ông Bùi Văn D. có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 172/2021/DS-GĐT ngày 14/5/2021 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 64/QĐKNGĐT-VKS-DS, ngày 01/02/2021 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Ông Nguyễn Văn B. cho rằng phần đất tranh chấp do cụ Nguyễn Văn G. (cha ông B.) đã cho bà X., ông D., bà U. ở nhờ nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Bà X., ông D., bà U. xác định nguồn gốc đất do gia tộc nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Văn Q. từ năm 1936 có xác nhận của Hương chức làng TQ. Đến năm 1980 cụ Bùi Văn A. là cha ông D. đã kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất. Việc sử dụng đất của gia đình bà X. là liên tục, ổn định, lâu dài, bảo đảm về việc xác lập quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Theo chứng thực lưu trữ địa chính số 379/CTLT ngày 17/3/2015 của Trung tâm công nghệ thông tin tỉnh VL và Công văn số 570/UBND-NC ngày 14/7/2017 của UBND huyện BM xác định năm 1980 cụ Bùi Văn A. (cha ông D.) có đăng ký thửa 1564 diện tích 1.200m2 và thửa đất 1566 diện tích 400m2. Còn cụ G. (cha ông B) đăng ký thửa 1565 diện tích 5.400m2. Tuy nhiên, đến năm 1991 khi thực hiện đo đạc chương trình đất thì cụ G. đăng ký kê khai tổng diện tích là 6.300m2 gồm cả 3 thửa 1564, 1565, 1566 nhập thành Thửa 264 và được cấp GCNQSĐ ngày 01/10/1996. GCNQSDĐ cấp cho ông B. không trùng khớp với hiện trạng sử dụng đất của các bên với lý do năm 1991 Thửa 264 có diện tích 6.300m2 nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 5.712,6m2 do sạt lở cặp rạch thông lưu và làm đường giao thông nông thôn.

Tại Quyết định số 65/QĐ-UBND ngày 17/01/2006 của UBND huyện BM đã hủy bỏ GCNQSDĐ cấp ngày 01/10/1996 do mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó ông B. làm thủ tục thừa kế và được cấp GCNQSDĐ ngày 08/02/2007. UBND cấp GCNQSDĐ cho cụ G. ngày 01/10/1996 (trong khi cụ G. đã chết ngày 28/6/1993) đối với toàn bộ thửa đất số 264 là không đúng đối tượng và thực tế quá trình sử dụng đất, không đúng quy định của pháp luật về đất đai.

Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B. và hủy một phần GCNQSDĐ đối với phần đất ông D., bà U., bà X. đang sử dụng tại chiết thửa 294-1; 294-2; 294-3; 294-4 thuộc một phần Thửa 294 là có căn cứ đúng quy định của pháp luật. Bản án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông B., buộc bà X., ông D., bà U. trả lại cho ông B. phần đất nêu trên là không có căn cứ, không đúng quy định pháp luật.

PV

Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm về phát hành, bán trái phiếu trái quy định

TRỰC 01/5

1. Về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

(LSVN) - Với những cơ sở đã phân tích, tác giả bài viết kiến nghị nên bỏ Điều 155 (Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại) và điều chỉnh một số nội dung có liên quan tại Điều 248 (Đình chỉ vụ án), Điều 157 (Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 cho phù hợp với lý luận và thực tiễn đặt ra.

Ảnh minh họa.

Về mặt học thuật, Bộ luật Hình sự được xem là luật nội dung, Bộ luật Tố tụng hình sự là luật hình thức. Giữa luật hình sự và luật tố tụng hình sự có mối quan hệ phụ thuộc, trong đó quan hệ pháp luật hình sự quyết định quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, nghĩa là: những quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự phải phù hợp với nội dung quy phạm của Bộ luật Hình sự. 

Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. 

Nghiên cứu nội dung Phần thứ nhất trong Bộ luật Hình sự năm 2015, ta thấy quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trái với Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015, đồng thời không sát thực tiễn.

Tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Theo nội dung nêu trên, người thực hiện hành vi pham tội chỉ có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi xác định được tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng… sau khi có kết quả điều tra.

Xét trên phương diện lý luận, khởi tố vụ án, khởi tố bị can là biện pháp tố tụng pháp lý ban đầu không thể bỏ qua khi hành vi nguy hiểm có dấu hiệu tội phạm đã xảy ra, bởi lẽ: tội phạm là hành vi nguy cho xã hội, để làm rõ nguyên nhân, động cơ phạm tội; tính chất, mức độ và hậu quả thiệt hại của tội phạm, bắt buộc phải thông qua quy trình điều tra mới có đủ căn cứ kết luận tội phạm thuộc trường hợp ít nghiệm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng; tội phạm do vô ý hoặc cố ý… Nếu không khởi tố điều tra thì không có căn cứ để xác định tính chất, mức độ tội phạm để quyết định khởi tố theo yêu cầu người bị hại. 

Về mặt thực tiễn, khởi tố điều tra có những ý nghĩa sau đây:

Thứ nhất: Mục đích của điều tra không chỉ nhằm để trừng trị kẻ phạm tội, mà còn để tìm ra nguồn gốc xuất phát của tội phạm, nguyên nhân, những bất hợp lý, sơ hở trong quá trình lãnh đạo, quản lý xã hội của chính quyền để chấn chỉnh nhằm tăng cường công tác phòng ngừa tội phạm tốt hơn. Không tiến hành khởi tố điều tra thì không thể tìm ra những vấn đề nêu trên, do đó tất cả những hành vi nguy hiểm có dấu hiệu tội phạm bắt buộc phải khởi tố điều tra là yêu cầu mang tính khách quan.

Thứ hai: Việc khởi tố điều tra còn là một biện pháp răn đe đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, có ý nghĩa tác động trực tiếp đến tâm lý người bị điều tra, ngăn ngừa họ tái phạm sau này và cũng để răn đe mọi người…

Với những cơ sở như đã phân tích nêu trên, thiết nghĩ, nên bỏ Điều 155 (Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại) và điều chỉnh một số nội dung có liên quan tại Điều 248 (Đình chỉ vụ án), Điều 157 (Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 cho phù hợp với lý luận và thực tiễn đặt ra.

Luật sư ĐOÀN CÔNG THIỆN

Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang

Hỏi cung bị can theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành

Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai: Hơn 32 năm hình thành và phát triển

(LSVN) - Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai được thành lập ngày 17/01/1990. Trong hơn 32 năm qua, Đoàn đã trải qua quá trình phát triển mạnh mẽ. Từ 06 Luật sư ngày đầu thành lập, đến nay Đoàn đã có đội ngũ hùng hậu với hơn 400 Luật sư chính thức và hơn 200 Luật sư tập sự, tham gia hoạt động tại 136 tổ chức hành nghề và có 06 Luật sư hoạt động với tư cách cá nhân. 

Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai gồm 09 Luật sư (01 Chủ nhiệm, 04 Phó Chủ nhiệm và 04 Ủy viên Ban Chủ nhiệm).

Tổ chức chuyên môn, trực thuộc gồm:

- Hội đồng Khen thưởng - kỷ luật gồm 07 Luật sư, trong đó có 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch phụ trách khen thưởng, 01 Phó Chủ tịch phụ trách kỷ luật và 04 Ủy viên;  

- Văn phòng Đoàn Luật sư có 05 thành viên; trong đó có 01 Chánh Văn phòng, 01 Phó Chánh văn phòng và 03 nhân viên;

- Ban Giám sát có 05 Luật sư (01 Trưởng ban, 01 Phó ban và 03 thành viên);

- Ban Bồi dưỡng phát triển nghề Luật sư có 07 Luật sư (01 Trưởng ban, 02 Phó ban và 04 thành viên);

- Ban Tuyên truyền và trợ giúp pháp lý gồm 05 Luật sư, (01 Trưởng ban, 01 Phó ban và 03 thành viên);

- Ban Phát triển kinh tế, tài chính, kế toán và hậu cần có 05 Luật sư, (01 Trưởng ban, 01 Phó ban và 03 thành viên);

- Ban Văn hóa và thể thao có 06 Luật sư,  (01 Trưởng ban, 02 Phó ban và 03 thành viên);

- Ban Bảo vệ quyền lợi Luật sư có 05 Luật sư (01 Trưởng ban, 01 phó ban và 03 thành viên).

Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai đã thực hiện thành lập Chi hội nữ trí thức, thuộc Hội nữ trí thức của tỉnh (Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Đồng Nai) gồm tất cả các nữ Luật sư của Đoàn (gần 130 nữ Luật sư), để gắn kết hoạt động của nữ Luật sư trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, tư vấn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những trường hợp liên quan đến bạo hành, bạo lực gia đình, quấy rối, xâm hại tình dục. Đồng thời Đoàn cũng đã thành lập CLB Luật sư trẻ, Chi Đoàn TNCS Hồ Chí Minh...

Thời gian qua, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai đã không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động, tạo được niềm tin của doanh nghiệp, người dân khi gặp các vấn đề liên quan đến pháp lý. Đội ngũ Luật sư của tỉnh đã tham gia bảo vệ quyền, nghĩa vụ hợp pháp cho hàng nghìn vụ án, vụ việc theo yêu cầu và trợ giúp pháp lý. Đặc biệt, Đoàn đã chú trọng các hoạt động dịch vụ pháp lý miễn phí cho đối tượng chính sách và người nghèo; có nhiều hình thức tư vấn pháp luật miễn phí cho người dân vùng sâu, vùng xa, công nhân lao động trong các doanh nghiệp…

Đoàn cũng đã tổ chức các khóa học tập chính trị - tư tưởng cho Luật sư thông qua chương trình hội nghị hàng năm và các đợt bồi dưỡng bắt buộc. 

Ban Chủ nhiệm đã tổ chức hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp theo các chủ đề, với số lượng tham gia trực tiếp hơn 100 Luật sư và hàng trăm Luật sư tham gia trực tuyến. Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai cũng tích cực tham gia đóng góp ý kiến các văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương các cấp. 

Bên cạnh đó, Đoàn còn phối hợp với Đài phát thanh và truyền hình tỉnh Đồng Nai tổ chức các chương trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật theo các khung giờ.

Ngoài ra, trong thời gian qua, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai còn tăng cường sức mạnh của tổ chức Đảng trong Đoàn Luật sư, kiện toàn cấp ủy và tập trung lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác chuyên môn của Đoàn. Phấn đấu 100% đảng viên là Luật sư thể hiện tính đầu tàu, gương mẫu trong chấp hành đạo đức nghề nghiệp và thực hiện chuyên môn nghiệp vụ.

Đoàn cũng tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát Luật sư và hoạt động hành nghề Luật sư, bảo đảm hoạt động đúng pháp luật. Kiên quyết xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức nghề nghiệp để không ngừng nâng cao hình ảnh và uy tín của nghề Luật sư.

Tổ chức bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn nghiệp vụ bắt buộc theo quy định, bảo đảm 100% Luật sư được bồi dưỡng hàng năm.

Đồng thời tiếp tục củng cố và hoàn thiện bộ máy nhân sự làm việc chuyên trách và bán chuyên trách của Đoàn Luật sư. Triển khai công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho Luật sư. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác để bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư.

Năm 2021 là năm có nhiều khó khăn, phức tạp, đại dịch Covid-19 bùng phát tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, hoạt động nghề nghiệp Luật sư đã bị ảnh hưởng rất lớn, nhiều phiên tòa phải tạm hoãn hoặc dừng, dời ngày xét xử, thay đổi ngày làm việc… đã gây ra không ít áp lực cho Luật sư và khách hàng, cũng như các cơ quan chức năng có thẩm quyền, các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy vậy, các Luật sư thành viên và Đoàn Luật sư tỉnh

Đồng Nai đã từng bước khắc phục, vượt qua khó khăn thách thức, cơ bản đã thực hiện được đầy đủ các chức năng xã hội giao phó, qua đó đạt được những thành tích đáng trân trọng trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư, cũng như các hoạt động thiện nguyện trong giai đoạn chống dịch Covid-19.

Trong thời gian tới, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai sẽ hướng đến thành lập các ban, tổ công tác trong từng lĩnh vực để tập hợp những Luật sư hành nghề chuyên sâu, chịu trách nhiệm kết nối, đề xuất những chính sách, biện pháp, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm để thúc đẩy phát triển và tập trung chuyên môn trong từng lĩnh vực… Trên cơ sở đó để từng bước hình thành và phát triển các Ban Hình sự, Dân sự, Hành chính, Lao động…; tư vấn, tranh tụng về đầu tư, thương mại quốc tế… nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư, đáp ứng mục tiêu của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong việc nâng tầm chất lượng đội ngũ Luật sư làm đầu tàu trong các lĩnh vực này.

Thông qua các hoạt động, Đoàn sẽ tổng kết, rút kinh nghiệm để có thể đưa ra các giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ Luật sư có khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước nâng cao chất lượng cho toàn thể đội ngũ Luật sư. Phát triển nghề Luật sư gắn với chuyển đổi số, đáp ứng nhu cầu thực tiễn và xu hướng hội nhập quốc tế theo tinh thần Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng phê duyệt theo Quyết định số 74/QĐ-TTg ngày 03/6/2020. Đồng thời, thành lập tổ công tác về chuyển đổi số có nhiệm vụ xây dựng Đề án về chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư và hỗ trợ luật cho các Luật sư trong hoạt động hành nghề.

HỒNG HẠNH

Kết quả kiểm tra Kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư đợt 1/2021

 

Vướng mắc, bất cập tội ‘Trốn tránh nghĩa vụ quân sự’

(LSVN) - Điều 332 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS) quy định về tội “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”, đây là quy định có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xử lý những trường hợp thanh niên không nhận thức được trách nhiệm cũng như quyền lợi trong thực hiện nghĩa vụ quân sự dẫn đến có hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án, vụ việc có dấu hiệu của tội này nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc do bất cập trong quy định của pháp luật và trong quy định, hoạt động mang tính đặc thù của Quân đội.

Theo khoản 8 Điều 3 Luật Nghĩa vụ quân sự (NVQS) năm 2015 quy định: “Trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự là hành vi không chấp hành lệnh gọi đăng ký nghĩa vụ quân sự; lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự; lệnh gọi nhập ngũ; lệnh gọi tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu”.

Như vậy, có 04 hành vi được coi là trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự gồm:

- Không chấp hành lệnh gọi đăng ký NVQS.

- Không chấp hành lệnh gọi khám sức khỏe NVQS.

- Không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ.

- Không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu.

Những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng

Một là, Điều 332 BLHS đã “không quy định về” hành vi “không chấp hành lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự”, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn như ví dụ sau:

A đã thực hiện việc đăng ký NVQS với cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên đến khi có lệnh gọi khám sức khỏe NVQS thì A đã không chấp hành. Cơ quan có thẩm quyền đã bị xử phạt hành chính A về hành vi trên, nhưng khi có lệnh gọi khám sức khỏe NVQS tiếp theo, A tiếp tục không chấp hành. Vì A chưa khám sức khỏe NVQS nên không có cơ sở để ra lệnh gọi nhập ngũ.

Như vậy, mặc dù hành vi này có tính chất, mức độ nghiêm trọng tương tự như hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký NVQS hay hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ nhưng lại không thể truy cứu TNHS đối với A về Tội trốn tránh NVQS theo quy định tại Điều 332 BLHS năm 2015, bởi vì điều luật không quy định hành vi này. Mặt khác, cũng không thể xử lý hình sự A về hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ.

Hai là, Điều 332 BLHS đã không liệt kê đầy đủ về hành vi “Không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra SSĐV, SSCĐ”. Việc quy định chỉ dừng lại ở “lệnh gọi tập trung huấn luyện” mà không đề cập đến “lệnh gọi tập trung diễn tập, sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu” làm nảy sinh những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng pháp luật như ví dụ sau:

A không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện thì bị xử lý, truy cứu TNHS. 

B không chấp hành lệnh gọi tập trung diễn tập thì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính.

Trong khi đó, diễn tập là hình thức huấn luyện cao nhất, toàn diện nhất, việc trốn tránh không tham gia diễn tập là hành vi có tính chất, mức độ nghiêm trọng hơn. Nhưng vì Điều 332 BLHS không quy định hành vi này nên không có cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS.

Đề xuất, kiến nghị

Để khắc phục các vướng mắc, bất cập trên, tác giả đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 332 BLHS năm 2015 theo hướng không liệt kê hành vi. Cụ thể:

“Người nào trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

Với quy định như vậy, khi áp dụng, chúng ta sẽ có thể viện dẫn đến văn bản luật điều chỉnh cụ thể về lĩnh vực này là Luật NVQS, từ đó, tiến hành xử lý đối với 04 hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự, đảm bảo tính toàn diện, thống nhất và không bỏ lọt tội phạm./.

THANH THỊNH

Thư ký Tòa án quân sự Khu vực Hải quân

Thực tiễn hoạt động bào chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự

Admin