CHIỀU
Ngân hàng có phải là người thứ ba ngay tình?
(LSVN) - Đây là vấn đề pháp lý thực tiễn xét xử vụ án dân sự còn nhiều vướng mắc, có nhiều quan điểm khác nhau, kết quả xét xử cũng khác nhau. Bên cạnh đó, các văn bản giải đáp nghiệp vụ của TAND Tối cao mang tính tham khảo cũng được “chỉnh lý” do vẫn còn ý kiến khác nhau.
Ảnh minh họa.
Câu hỏi đặt ra là trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà quyền sử dụng đất đó cho ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật. Vậy giao dịch thế chấp đó có bị vô hiệu không?
Giao dịch thế chấp không vô hiệu
Tại mục 1 Phần II của Công văn số 64/TAND-PC ngày 03/4/2019 TAND Tối cao đã trả lời rõ tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự quy định:
“2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.…”.
Theo Bản thuyết minh Dự án Bộ luật Dân sự năm 2015 của Ban Soạn thảo thì quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự là nhằm bảo đảm công bằng, hợp lý đối với người thiện chí, ngay tình và bảo đảm sự ổn định trong các quan hệ dân sự (các Bộ luật Dân sự trên thế giới đều ghi nhận việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự).
Do đó, cụm từ “chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự phải được áp dụng theo nghĩa rộng. Có nghĩa là không chỉ có những giao dịch nhằm chuyển giao quyền sở hữu như hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn nhà ở; chuyển nhượng, chuyển đổi, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà cả những giao dịch nhằm chuyển giao những quyền về sở hữu đối với tài sản hoặc quyền về sử dụng đối với thửa đất.
Ngân hàng là người thứ ba?
Đồng thời, thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm, theo quy định tại Điều 31 của Bộ luật Dân sự thì nội hàm của thế chấp tài sản là việc người thế chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp mà không giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, tại khoản 6 Điều 320 của Bộ luật Dân sự quy định nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản là: “Giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 299 của Bộ luật này”; khoản 7 Điều 323 của Bộ luật Dân sự quy định quyền của bên nhận thế chấp: “Xử lý tài sản thế chấp khi thuộc trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này”.
Như vậy, mục đích của thế chấp là người có nghĩa vụ dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp, trong trường hợp nghĩa vụ đó không được bên thế chấp thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì phải giao tài sản đã thế chấp cho bên nhận thế chấp xử lý nhằm bảo đảm quyền lợi của bên nhận thế chấp. Do đó, phải xem thế chấp tài sản là một giao dịch chuyển giao tài sản có điều kiện; để bảo đảm quyền lợi cho bên nhận thế chấp ngay tình thì phải hiểu quy định “chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự được áp dụng cả trong trường hợp giao dịch về thế chấp tài sản.
Vì vậy, theo Công văn số 64/TAND-PC ngày 03/4/2019 TAND Tối cao, trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật thì giao dịch thế chấp đó không vô hiệu.
Một tình huống khác như sau: Nhà đất thuộc quyền sở hữu của vợ chồng A, B. Ông A làm giả chữ ký của bà B để chuyển nhượng nhà đất cho C. Việc giả chữ ký đã được chứng minh thông qua việc giám định. Sau khi chuyển nhượng, ông A bà B vẫn chiếm hữu, sử dụng nhà đất. Sau đó, C đã dùng tài sản này để thế chấp khoản vay tại ngân hàng. Vậy giao dịch thế chấp tại ngân hàng này có vô hiệu không? Nếu vô hiệu thì có trái với mục 1 Phần II của Công văn 64/TAND- PC ngày 03/4/2019 của TAND Tối cao đã nêu trên?
Hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu
Tại mục I phần II Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021, TAND Tối cao giải đáp như sau: Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu".
Trường hợp này việc ông A giả chữ ký của bà B để chuyển nhượng nhà đất cho C mà không được bà B đồng ý, nên căn cứ Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch chuyển nhượng nhà đất trên là vô hiệu .
Ngân hàng không phải là người thứ ba ngay tình
Sau khi nhận chuyển nhượng, C dùng tài sản này thế chấp khoản vay tại ngân hàng, nhưng khi ký hợp đồng thế chấp, ngân hàng không thẩm định, xác minh nhưng không có tài liệu chứng minh ông A, bà B biết việc thế chấp tài sản này. Trong trường hợp này, bên nhận thế chấp tài sản (ngân hàng) không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự và mục 1 Phần II của Công văn 64/ TAND- PC ngày 03/4/2019 của TAND Tối cao. Do vậy, hợp đồng thế chấp tài sản cũng vô hiệu.
Thực tiễn xét xử án dân sự có Tòa án công nhận ngân hàng là người thứ ba ngay tình để tuyên công nhận hợp đồng thế chấp không vô hiệu; có Tòa không công nhận ngân hàng là người thứ ba tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu. Những vướng mắc này cần được hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất bằng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
LUẬT SƯ NGUYỄN HỒNG HÀ
Có phải thực hiện công chứng, chứng thực khi mua bán chung cư?
1. Quốc hội Nhật Bản thông qua Luật Thúc đẩy an ninh kinh tế
(LSVN) - Theo luật này, các mặt hàng như chip, dược phẩm và kim loại hiếm được xác định là các mặt hàng cực kỳ quan trọng, đòi hỏi có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước.
Toàn cảnh một phiên họp Quốc hội Nhật Bản tại Tokyo. (Ảnh: Kyodo/TTXVN).
Ngày 11/5, Quốc hội Nhật Bản đã chính thức thông qua dự thảo Luật Thúc đẩy an ninh kinh tế do Chính phủ đệ trình.
Được Hạ viện thông qua ngày 07/4 và Thượng viện thông qua ngày 11/5, Luật Thúc đẩy an ninh kinh tế của Nhật Bản bao gồm 4 trụ cột là tăng cường các chuỗi cung ứng nhằm đảm bảo ổn định nguồn cung chất bán dẫn và các hàng hóa chiến lược khác; tạo điều kiện cho việc phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) và các công nghệ tiên tiến khác; đảm bảo an toàn cho hệ thống cơ sở hạ tầng; và ngăn chặn sự rò rỉ các công nghệ nhạy cảm.
Cụ thể, theo luật này, các mặt hàng như chip, dược phẩm và kim loại hiếm được xác định là các mặt hàng cực kỳ quan trọng, đòi hỏi có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước.
Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản sẽ hỗ trợ tài chính cho các nhà cung ứng trong nước có được nguồn cung ổn định. Bên cạnh đó, chính phủ sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển trí tuệ nhân tạo và các công nghệ tiên tiến khác thông qua hợp tác công-tư bằng cách cung cấp thông tin và hỗ trợ tài chính.
Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, bao gồm cả viễn thông và vận tải, Chính phủ Nhật Bản sẽ kiểm tra các thiết bị mà các doanh nghiệp, tổ chức dự định lắp đặt để giảm thiểu nguy cơ bị tấn công mạng và ngăn ngừa khả năng việc sử dụng các linh kiện từ nước ngoài có thể gây ra mối đe dọa an ninh.
Mặt khác, luật mới cũng bao gồm các quy định nhằm bảo vệ các bằng sáng chế có liên quan tới các công nghệ nhạy cảm.
Đáng chú ý, Nhật Bản sẽ phạt tù tới 2 năm hoặc phạt tiền tối đa 1 triệu yen đối với những người làm rò rỉ thông tin về các bằng sáng chế không được tiết lộ.
Trong bối cảnh có những quan ngại về khả năng sự can dự quá mức của chính phủ vào kinh tế tư nhân có thể hạn chế các hoạt động của doanh nghiệp, luật quy định Chính phủ cần phải hành động một cách cẩn trọng.
Bên cạnh đó, sau khi Đảng Dân chủ Lập hiến Nhật Bản (CDPJ) đối lập bày tỏ quan ngại về vấn đề này, liên minh cầm quyền đã bổ sung thêm nghị quyết không mang tính ràng buộc vào luật này, trong đó khẳng định sẽ tôn trọng tính độc lập của các hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra, nghị quyết cũng kêu gọi xem xét áp đặt các hình phạt đối với các doanh nghiệp từ chối các cuộc điều tra của chính phủ về các chuỗi cung ứng./.
TTXVN
Trả tiền cho người cung cấp thông tin vi phạm giao thông là khả thi, hợp lý!
2. 6 văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 4/2022
(LSVN) - Theo Bộ Tư pháp, trong tháng 4 năm 2022, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 6 văn bản quy phạm pháp luật, gồm 5 nghị định của Chính phủ và 1 quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Cụ thể, ngày 05/4/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 23/2022/NĐ-CP về thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Nghị định này quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp về thành lập, sắp xếp lại (không bao gồm hình thức phá sản doanh nghiệp), chuyển đổi sở hữu (không bao gồm hình thức chuyển doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần), chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Nghị định số 26/2022/NĐ-CP ngày 14/4/2022 của Chính phủ về viên chức Lãnh sự danh dự nước ngoài tại Việt Nam quy định nguyên tắc thực hiện chức năng lãnh sự; thủ tục chấp thuận, chấm dứt hoạt động của Lãnh sự danh dự (LSDD); quy chế hoạt động của Lãnh sự danh dự.
So với các quy định trước đây, Nghị định quy định cụ thể hơn về: thẩm quyền chấp thuận việc thành lập Cơ quan LSDD và trình tự thủ tục chấp thuận LSDD; quy định về khu vực lãnh sự; hồ sơ đề nghị chấp thuận LSDD; quyền và nghĩa vụ của LSDĐ, nhiệm kỳ của LSDD. Nghị định cũng bổ sung quy định mới về: tạm dừng thực hiện chức năng lãnh sự; nguyên tắc thực hiện chức năng lãnh sự, việc cấp, cấp lại, gia hạn Chứng minh thư LSDD; thay đổi trụ sở của LSDD; tạm dừng thực hiện chức năng lãnh sự.
Nghị định số 27/2022/NĐ-CP ngày 19/4/2022 của Chính phủ quy định cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia bổ sung, thay thế Nghị định số 161/2016/NĐ-CP chỉ có hiệu lực áp dụng cho các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020, không còn hiệu lực pháp lý áp dụng được cho các năm giai đoạn 2021-2025. Đồng thời, sửa đổi, thay thế một số quy định tại Quyết định số 41/2016/QĐ-TTg để đảm bảo thống nhất với quy định của Luật Đầu tư công năm 2019, Luật Ngân sách nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của Nghị định: Lập và giao kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 5 năm và hằng năm; huy động và sử dụng nguồn vốn thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia; cơ chế đặc thù trong tổ chức thực hiện dự án đầu tư xây dựng quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp; cơ chế tổ chức thực hiện hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình mục tiêu quốc gia; tổ chức quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia; giám sát, đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia.
Việc ban hành Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 của Chính phủ về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030, giai đoạn 1: từ năm 2021 đến năm 2025 để tiếp nối các chính sách tín dụng giải quyết vấn đề cấp bách về đất ở, nhà ở, đất sản xuất cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã hết thời hạn thực hiện từ năm 2020, đồng thời thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng chính sách tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào các dự án phát huy thế mạnh của địa phương, góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Nghị định số 28/2022/NĐ-CP quy định 06 chính sách tín dụng được thực hiện thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội, cụ thể:
- Cho vay hỗ trợ đất ở;
- Cho vay hỗ trợ nhà ở;
- Cho vay hỗ trợ đất sản xuất;
- Cho vay hỗ trợ chuyển đổi nghề;
- Cho vay hỗ trợ phát triển vùng trồng dược liệu quý;
- Cho vay phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị.
Ngày 04/4/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 09/2022/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên (HSSV) có hoàn cảnh gia đình khó khăn để mua máy tính, thiết bị phục vụ học tập trực tuyến.
Quyết định ban hành để thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ. Đồng thời, với diễn biến dịch Covid-19 còn phức tạp, mức độ lây lan nhanh và rộng nên HSSV có thể phải tiếp tục học trực tuyến khi bị nhiễm Covid-19 hoặc tại địa phương có số ca nhiễm cao, do đó vẫn có nhu cầu vay vốn để mua máy tính. Bên cạnh đó, trong bối cảnh đất nước đang thực hiện công nghệ hóa, số hóa mọi lĩnh vực của đời sống, việc trang bị máy tính hoặc thiết bị điện tử cho HSSV là cần thiết.
Mức vốn cho vay tối đa 10 triệu đồng/HSSV. Thời hạn cho vay tối đa 36 tháng. Lãi suất cho vay 1,2%/năm. Nguồn vốn cho vay tối đa là 3.000 tỉ đồng từ nguồn phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh của NHCSXH theo quy định tại Nghị quyết số 11/NQ-CP.
MAI HUỆ
Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng
1. Căn cứ điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Nghị định số 29/2022/NĐ-CP Chính phủ vừa ban hành quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19.
Nghị định này quy định về điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19; kinh phí chi thường xuyên của cơ sở thu dung, điều trị Covid-19 công lập và hoàn trả chi phí phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người bệnh Covid-19; một số cơ chế đặc thù liên quan đến thuốc, nguyên liệu làm thuốc có chỉ định sử dụng phòng, điều trị Covid-19; chế độ chính sách đối với người được điều động, huy động tham gia phòng, chống dịch Covid-19 bị mắc Covid-19; người phải cách ly y tế sau thời gian làm việc tại cơ sở thu dung, điều trị Covid-19.
Trong đó, Điều 2 Nghị định quy định rõ về các căn cứ điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19. Cụ thể gồm:
- Đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Giám đốc Sở Y tế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu hỗ trợ nhân lực tham gia phòng, chống dịch Covid-19 theo mẫu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này;
- Đề nghị của Thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở thu dung, điều trị Covid-19 và cơ sở y tế dự phòng có nhu cầu hỗ trợ nhân lực tham gia phòng, chống dịch Covid-19;
- Điều động của Bộ trưởng Bộ Y tế bổ sung nhân lực hỗ trợ đối với các địa phương, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở y tế dự phòng để tăng cường lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19;
- Điều động của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Công an đối với cán bộ, chiến sĩ thuộc phạm vi quản lý bổ sung nhân lực hỗ trợ đối với các địa phương, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở y tế dự phòng để tăng cường lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19.
Thẩm quyền điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19 (sau đây gọi chung là điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19):
- Bộ trưởng Bộ Y tế điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trong phạm vi toàn quốc, trừ lực lượng do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý;
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trong phạm vi quản lý;
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ủy quyền điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn quản lý;
- Thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở thu dung, điều trị Covid-19, cơ sở y tế dự phòng, cơ sở đào tạo khối ngành sức khỏe điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 thuộc phạm vi quản lý.
NGUYẾN DŨNG
Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng
2. Phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng: Khó khả thi!
(LSVN) - Việc phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng di động là cần thiết để nâng cao nhận thức của người dân về các vi phạm trong phòng, chống tác hại của thuốc lá. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý các hành vi vi phạm hút thuốc lá nơi công cộng hiện nay chưa phát huy hiệu quả.
Ảnh minh họa.
Ngày 06/5 tại Hà Nội, Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) tổ chức Hội thảo triển khai dự án “Tăng cường thực thi Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá thông qua thí điểm mô hình huy động sự tham gia của cộng đồng ở cấp quận và nhân rộng trên toàn quốc”. Với mong muốn góp phần thực hiện hiệu quả hơn nữa các quy định về môi trường không khói thuốc, Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá xây dựng ứng dụng phần mềm VN0khoithuoc trên điện thoại di động, nhắm phát huy vai trò của người dân và tận dụng sức mạnh cộng đồng để phát hiện các trường hợp vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc. Phần mềm được triển khai thí điểm tại 2 quận Hoàn Kiếm và Tây Hồ (Hà Nội) trong năm 2022.
Mặc dù, mới là áp dụng thí điểm nhưng dư luận lo ngại về tính khả thi của việc xử lý hành vi vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc qua ứng dụng phần mềm VN0khoithuoc trên điện thoại di động (gọi tắt là qua ứng dụng) vì những lý do sau:
Thứ nhất, hiện nay tình trạng hút thuốc lá tại nơi công cộng nơi có quy định cấm hút thuốc lá như cơ quan, bệnh viện, trường học,…xảy ra phổ biến nhưng việc xử lý các hành vi vi phạm này là rất hạn chế. Nhiều người vẫn vô tư hút thuốc lá tại các địa điểm có quy định cấm mà không sợ bị xử lý. Việc kiểm tra, nhắc nhở và xử lý của các cơ quan chức năng đối với người vi phạm chưa được thường xuyên, kịp thời. Chính vì vậy, việc triển khai ứng dụng để xử lý hành vi vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc sẽ càng khó khăn hơn.
Thứ hai, hành vi hút thuốc lá tại nơi công cộng xảy ra nhanh chóng, đối tượng vi phạm chủ yếu là người vãn lai. Sau khi hút thuốc xong, người vi phạm sẽ di chuyển đi nơi khác nên không thể có các thông tin như tên, địa chỉ người vi phạm; đồng thời, hành vi vi phạm này cần phải bắt quả tang, lập biên bản tại chỗ và xử lý mới đảm bảo tính khả thi. Do đó, việc người dân quay video hoặc chụp ảnh các hành vi vi phạm và gửi về cơ quan chức năng sẽ rất khó xử lý do thiếu thông tin của đối tượng vi phạm.
Thứ ba, về quy trình xử lý, thông tin phản ánh của người dân sẽ được tiếp nhận và xử lý bởi Ủy ban nhân dân cấp quận và chuyển xuống cấp xã, phường nơi có cơ sở vi phạm. Cơ quan chức năng tiếp nhận, xử lý, đồng thời chuyển lại kết quả để người dân theo dõi, giám sát quá trình xử lý. Quy trình này phải tốn rất nhiều thời gian, nguồn nhân lực và phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc tiếp nhận và xử lý thông tin. Mặt khác, một số thông tin phản ánh của người dân không có nghĩa là đã đầy đủ, chính xác, rõ ràng mà phải thông qua việc kiểm tra, xác minh, nhiều trường hợp việc xác minh, kiểm tra sẽ không có kết quả nên không thể xử lý hành vi vi phạm. Việc này có thể làm cho người dân đã phản ánh thông tin sẽ nản lòng và không tiếp tục phản ánh nữa.
Thiết nghĩ, việc phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng di động là cần thiết để nâng cao nhận thức của người dân về các vi phạm trong phòng, chống tác hại của thuốc lá. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý các hành vi vi phạm hút thuốc lá nơi công cộng hiện nay chưa phát huy hiệu quả. Việc phản ánh của người dân về hành vi hút thuốc lá tại nơi công cộng qua ứng ựng chỉ có thể giúp chính quyền cơ sở và cơ quan, đơn vị, quản lý các địa điểm công cộng nơi cấm hút thuốc lá tăng cường các biện pháp quản lý như kiểm tra, nhắc nhở và xử lý hành vi vi phạm, chứ không thể giúp lực lượng chức năng kiểm tra, xử lý các hành vi hút thuốc lá nơi công cộng đã xảy ra và được người dân quay video hoặc chụp ảnh cung cấp.
ĐỖ VĂN NHÂN
Các quy định người đi thuê nhà cần biết
3. Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp
(LSVN) – Bộ Công thương vừa ban hành Thông tư 07/2022/TT-BCT hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực. Trong đó quy định rõ hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp.
Cụ thể, về nguyên tắc áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp Thông tư quy định rõ tại cùng một thời điểm, không áp dụng đồng thời biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp và biện pháp tự vệ theo quy định tại Điều 91 Luật Quản lý ngoại thương đối với cùng một hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định RCEP.
Biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp không được áp dụng ngoài giai đoạn chuyển tiếp.
Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp
Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp (trong Chương này gọi là Hồ sơ yêu cầu) gồm Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp và các giấy tờ, tài liệu có liên quan theo quy định tại Điều 47 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.
Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP phải đáp ứng các nội dung cụ thể sau đây:
- Tên, địa chỉ và thông tin cần thiết của tổ chức, cá nhân đại diện ngành sản xuất trong nước;
- Thông tin, số liệu, chứng cứ để xác định đại diện ngành sản xuất trong nước, bao gồm danh sách các tổ chức, cá nhân trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp; khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp mà các tổ chức, cá nhân nêu trên sản xuất;
- Tên, địa chỉ của các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa tương tự ủng hộ hoặc phản đối vụ việc;
- Thông tin mô tả về hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định RCEP bị yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp, bao gồm tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; thành phần; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam; mã hàng và mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện Hiệp định RCEP;
- Thông tin mô tả về hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước bao gồm tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam;
- Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá hàng hóa nhập khẩu quy định tại điểm d khoản này trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ yêu cầu và đã bao gồm ít nhất 06 tháng sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực. Trị giá hải quan hàng hóa nhập khẩu được thực hiện theo quy định tại Hiệp định thực thi Điều VII Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994);
- Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước quy định tại điểm đ khoản này trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ yêu cầu và đã bao gồm ít nhất 06 tháng sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực. Trong trường hợp ngành sản xuất trong nước hoạt động ít hơn 03 năm, dữ liệu thu thập là toàn bộ thời gian hoạt động của ngành sản xuất trong nước tính đến thời điểm nộp Hồ sơ yêu cầu;
- Thông tin, số liệu, chứng cứ về thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;
- Thông tin, số liệu, chứng cứ về mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hóa quy định tại điểm d khoản này và thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;
- Yêu cầu cụ thể về việc áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp, thời hạn áp dụng và mức độ áp dụng.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09/5/2022.
PHƯƠNG HOA
Điều kiện vay vốn với trường mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng Covid-19
4. Người được hưởng án treo bị buộc phải chấp hành hình phạt tù trong trường hợp nào?
(LSVN) - Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý tại Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình vừa ký ban hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.
Ảnh minh họa.
Theo đó, Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP đã sửa đổi, bổ sung Điều 10 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP về trường hợp người được hưởng án treo bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo do cố ý vi phạm nghĩa vụ
Cụ thể, người được hưởng án treo có thể bị Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo nếu đang trong thời gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên.
Vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên đối với trường hợp người được hưởng án treo bỏ đi khỏi nơi cư trú không xin phép được xác định như sau:
- Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo bỏ đi khỏi nơi cư trú không xin phép, cơ quan có thẩm quyền căn cứ Điều 87, Điều 91 và Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự lập biên bản vi phạm nghĩa vụ, nhắc nhở lần 01 và triệu tập người này để tiếp tục thi hành án nhưng họ vẫn không có mặt theo giấy triệu tập nên cơ quan có thẩm quyền tổ chức kiểm điểm vắng mặt và lập biên bản kiểm điểm vắng mặt. Trường hợp này được xác định là vi phạm nghĩa vụ lần 01.
- Căn cứ Điều 93 của Luật Thi hành án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiếp tục triệu tập người được hưởng án treo nhưng người này vẫn không có mặt nên bị lập biên bản nhắc nhở lần 02. Cơ quan có thẩm quyền tiếp tục triệu tập người được hưởng án treo nếu người này vẫn không có mặt thì lập biên bản xác nhận sự vắng mặt. Trường hợp này được coi là vi phạm nghĩa vụ lần 02.
Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 23/3/2022 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/5/2022.
Đối với hành vi phạm tội xảy ra trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà vụ án đang trong quá trình xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm, xét xử tái thẩm thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết.
Trường hợp người phạm tội đã bị xét xử trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các văn bản hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
DUY ANH
Các điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo từ 10/5/2022
5. Chính phủ yêu cầu nghiên cứu, đề xuất nâng mức dự trữ xăng dầu
(LSVN) - Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương tăng cường theo dõi, bảo đảm cung cầu mặt hàng xăng dầu, điều hành giá xăng dầu chủ động, kịp thời, hiệu quả; nghiên cứu, đề xuất nâng mức dự trữ xăng dầu; chú trọng công tác thông tin tuyên truyền để tạo đồng thuận xã hội.
Ảnh minh họa.
Đây là một trong những điểm đáng chú ý tại Nghị quyết số 63/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2022 Chính phủ vừa ban hành.
Cụ thể, Chính phủ giao Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương tăng cường theo dõi, bảo đảm cung cầu mặt hàng xăng dầu, điều hành giá xăng dầu chủ động, kịp thời, hiệu quả; nghiên cứu, đề xuất nâng mức dự trữ xăng dầu; chú trọng công tác thông tin tuyên truyền để tạo đồng thuận xã hội.
Tập trung chỉ đạo rà soát toàn bộ kế hoạch vận hành hệ thống điện quốc gia, đặc biệt chú ý phát triển hài hòa, hợp lý, hiệu quả về năng lực sản xuất và truyền tải điện, bám sát tình hình phụ tải và có phương án trong trường hợp phụ tải tăng cao, hệ thống truyền tải điện luôn đặt vào trạng thái sẵn sàng để bảo đảm điện cho sản xuất và tiêu dùng, sinh hoạt.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương tập trung chỉ đạo, triển khai các biện pháp thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu nông sản, bảo đảm cân đối cung cầu, ổn định thị trường; chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, nhất là dịch tả lợn Châu Phi; kiểm soát giá thức ăn chăn nuôi, chi phí đầu vào đối với sản xuất nông nghiệp.
Chủ động chỉ đạo triển khai công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, nhất là trong mùa khô và những ngày nắng nóng; cương quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về bảo vệ rừng, khai thác, vận chuyển gỗ và lâm sản trái phép; chặt phá, chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật.
Theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, thiên tai để chủ động chỉ đạo và tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kịp thời chỉ đạo công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong mùa mưa bão sắp tới.
Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các chính sách về quản lý xây dựng, cắt giảm các thủ tục hành chính trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản để góp phần đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công.
Chủ trì cùng với bộ, ngành liên quan đề xuất tổ chức Hội nghị trong tháng 5 năm 2022 để đánh giá toàn diện thị trường bất động sản năm 2021 và những tháng đầu năm 2022; đề xuất các giải pháp tiếp tục phát triển thị trường bất động sản ổn định, lành mạnh, bền vững.
TIẾN HƯNG
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực
6. Đẩy nhanh tiến độ điều tra các vụ án, vụ việc kinh tế, tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng
(LSVN) - Chính phủ ban hành Nghị quyết số 63/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2022. Đáng chú ý, Chính phủ yêu cầu đẩy nhanh tiến độ điều tra các vụ án, vụ việc kinh tế, tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo.
Ảnh minh họa.
Cụ thể, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu, công trình trọng điểm, các sự kiện quan trọng, hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trọng tâm là bảo đảm an ninh, an toàn dịp lễ 30/4, 01/5 và SEA Games 31, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV.
Đẩy nhanh tiến độ điều tra các vụ án, vụ việc kinh tế, tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; tăng cường kiểm tra, rà soát các điều kiện bảo đảm an toàn phòng, chống cháy nổ tại các địa bàn, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý các vi phạm về an toàn phòng cháy, chữa cháy theo quy định.
Hoàn thành trong tháng 5 năm 2022 việc kết nối, chia sẻ, xác thực thông tin công dân với Cổng Dịch vụ công quốc gia, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh để phục vụ giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến.
Phối hợp với Văn phòng Chính phủ kết nối, tích hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu tổng hợp về dân cư với Trung tâm thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hoàn thành trong tháng 5 năm 2022.
Bộ Quốc phòng chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời triển khai các biện pháp bảo đảm giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không để bất ngờ, bị động trong mọi tình huống.
HÀ ANH
Điều kiện vay vốn với trường mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng Covid-19
SÁNG
1. Đối tượng, chức danh luân chuyển cán bộ theo quy định mới nhất
(LSVN) - Công tác luân chuyển cán bộ là một nội dung trong công tác cán bộ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là các cấp uỷ, tổ chức đảng; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu. Vừa qua, thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đã ký Quy định số 65-QĐ/TW ngày 28/4/2022 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ.
Trong đó, tại Điều 4 Quy định nêu rõ về phạm vi, đối tượng, chức danh luân chuyển. Cụ thể, về phạm vi, luân chuyển từ cấp trên xuống cấp dưới, từ cấp dưới lên cấp trên, từ địa phương này sang địa phương khác; giữa các cơ quan, tổ chức cùng cấp trong hệ thống chính trị.
Đối tượng luân chuyển gồm:
- Cán bộ được quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp.
- Cán bộ được luân chuyển để thực hiện chủ trương bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương và cán bộ không giữ chức vụ cấp trưởng quá hai nhiệm kỳ liên tiếp ở một địa phương, cơ quan, đơn vị, gồm: Bí thư cấp uỷ, chủ tịch Uỷ ban nhân dân, chánh án toà án nhân dân, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và cấp trưởng các ngành công an, thanh tra, tài chính, thuế, hải quan cấp tỉnh, cấp huyện.
- Trường hợp khác do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Nguyên tắc bố trí chức danh khi luân chuyển
Cơ bản thực hiện theo nguyên tắc bố trí giữ chức vụ tương đương với chức vụ đang đảm nhiệm. Trường hợp cần thiết, cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định bố trí chức vụ cao hơn chức vụ đang đảm nhiệm đối với cán bộ có phẩm chất, năng lực nổi trội, có khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của chức vụ dự kiến phân công, bố trí.
Quy định này có hiệu lực từ ngày 28/4/2022 và thay thế Quy định số 98-QĐ/TW, ngày 07/10/2017 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ.
HỒNG HẠNH
Thẩm quyền luân chuyển cán bộ theo quy định mới nhất
2. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa quy định tại Điều 325 BLTTHS
(LSVN) - Bên cạnh việc quy định quyền truy tố của Viện Kiểm sát thì pháp luật hiện hành cũng quy định về việc rút quyết định truy tố. Việc rút quyết định truy tố của Kiểm sát viên có thể diễn tra trước hoặc trong phiên tòa, có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố. Bài viết dưới đây tác giả sẽ giới thiệu về hoạt động xem xét khi Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa.
Ảnh minh họa.
Viện Kiểm sát (VKS) quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Như vậy, có thể hiểu quyết định truy tố chính là bản cáo trạng được Kiểm sát viên đọc trước phiên tòa. Từ đó, thì rút quyết định truy tố chính là hoạt động rút bản cáo trạng. Rút quyết định truy tố có thể là rút toàn bộ quyết định truy tố tức là rút toàn bộ cáo trạng mà VKS đã truy tố người phạm tội hoặc rút một phần quyết định truy tố tức là Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) không xét xử người phạm tội về một tội hoặc về một số tội nào đó hoặc không áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã nêu trong cáo trạng.
Tại Điều 325 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định xem xét về việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa như sau:
“1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, HĐXX yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố đó”.
Tại phiên tòa khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận việc rút truy tố đó. Hoạt động rút một phần quyết định truy tố của Kiểm sát viên không làm thay đổi giới hạn xét xử về cả phạm vi xem xét và phạm vi ra quyết định vụ án, Hội đồng xét xử vẫn có quyền xét xử toàn bộ những bị cáo và hành vi đã bị Viện Kiểm sát truy tố trong cáo trạng và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa khi Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án, trước khi nghị án, thì Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến của họ về việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát là có hay không có căn cứ.
Và tại khoản 4 Điều 326 quy định: “Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp.”
Thực tiễn việc xem xét rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa và những khó khăn, vướng mắc
Việc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa được thực hiện ở hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ khi Tòa án nhận hồ sơ đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử và giai đoạn 2 từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử tới khi mở phiên tòa.
Giai đoạn 1: Nếu xét thấy có căn cứ rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố thì Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án phải báo cáo cho Viện trưởng VKS xem xét, quyết định. Việc rút quyết định truy tố phải bằng văn bản và nêu rõ lý do. Trường hợp rút toàn bộ quyết định truy tố thì đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án. Sau khi Tòa án xem xét việc Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố là đúng đắn, thì thẩm quyền đình chỉ vụ án thuộc về Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa theo quy định tại Điều 282 BLTTHS.
Những căn cứ để VKS rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án bao gồm: Không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm được đại xá, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, người tội phạm được đại xá, người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng gây thiệt hại không lớn có nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Giai đoạn 2: Khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trước khi mở phiên tòa nếu VKS rút một phần quyết định truy tố thì HĐXX chỉ xét xử phần không bị rút truy tố; nếu VKS rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX ra quyết định đình chỉ vụ án.
Đối với việc rút toàn bộ quyết định truy tố, thẩm quyền giải quyết có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm 1: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 282 BLTTHS, trường hợp VKS rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án nên thẩm quyền thuộc Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa.
Quan điểm 2: Khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thẩm quyền không phải của Thẩm phán mà thuộc về HĐXX, vì vậy Tòa án phải mở phiên tòa và thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.
Quan điểm 3: Thẩm quyền thuộc về HĐXX nhưng không cần thiết phải mở phiên tòa mà HĐXX mở phiên họp để giải quyết việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát bằng và trước ngày mở phiên tòa (vì do không phát sinh chức năng xét xử).
Quan điểm cá nhân đồng ý với quan điểm 2, bởi khi đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, VKS rút toàn bộ quyết định truy tố thì mọi quyết định đều thuộc HĐXX nên phải mở phiên tòa, HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định. Nếu có căn cứ, xác định bị cáo không có tội thì HĐXX nghị án, ra bản án tuyên bị cáo không có tội.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 320; Điều 325; khoản 4 Điều 326 BLTTHS khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Nếu KSV rút toàn bộ quyết định truy tố, trước khi nghị án HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến về việc rút đó và giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự tại phần khoản 1 Điều 326 BLTTHS. Khi nghị án, HĐXX cho rằng việc rút quyết định truy tố đúng đắn thì tuyên bị cáo vô tội, nếu việc rút đó không đúng thì ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp. Điểm bất cập ở quy định này là khi VKS rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX vẫn tiếp tục giải quyết những vấn đề của vụ án.
Có quan điểm cho rằng nếu KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì đương nhiên sẽ không có lời luận tội, không có tranh luận giữa các bên thì làm sao HĐXX tiếp tục giải quyết. Vì vậy, khi KSV rút quyết định truy tố phần nào thì HĐXX chỉ được xét xử phần còn lại, nếu rút toàn bộ thì phải tuyên bị cáo vô tội chứ không phải HĐXX lựa chọn việc là tiếp tục xét xử. Như vậy thẩm quyền của Tòa án trong vấn đề rút quyết định truy tố đã mâu thuẫn với chức năng xét xử. Vì giới hạn xét xử và quyền truy tố đặt ra yêu cầu nếu không có buộc tội thì không phát sinh việc xét xử.
BLTTHS quy định việc rút quyết định truy tố của VKS tại Điều 285: “Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 BLHS thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án”. Tuy nhiên, điều luật không quy định rõ việc rút một phần hay là toàn bộ quyết định truy tố nên việc “đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án” là chưa phù hợp.
Xem xét việc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa sơ thẩm
Tại Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa sau khi xét hỏi nếu có căn cứ rõ ràng để kết luận về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng điều luật làm thay đổi quyết định truy tố thì KSV có quyền kết luận về khoản nhẹ hơn hoặc nặng hơn (tình tiết định khung tăng nặng) khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hay không? Có quan điểm cho rằng tại phiên tòa sơ thẩm, KSV có quyền kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng điều luật. Vì theo quy định tại Điều 298 BLTTHS thì kết luận và đề nghị của KSV về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng một điều luật là hoàn toàn nằm trong phạm vi “giới hạn của việc xét xử”. Trong quá trình tham gia xét xử và diễn biến tại phiên tòa KSV nhận thấy bị cáo không phạm vào điểm, khoản mà VKS truy tố nhưng phạm vào điểm, khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng một điều luật, nếu KSV đó không được thay đổi mà vẫn bảo vệ theo khoản mà VKS đã truy tố trước đó thì không đúng theo nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” quy định tại Điều 15 BLTTHS. Trong khi đó Tòa án lại có thẩm quyền xét xử theo khoản nặng hơn trong cùng một điều luật khác với khoản mà VKS đã truy tố trước đó.
Trong trường hợp VKS rút quyết định truy tố không có căn cứ HĐXX ra quyết định tạm đình chỉ vụ án thì căn cứ vào quy định nào của BLTTHS, vì Điều 281 BLTTHS không có quy định trường hợp này. Mặc khác luật cũng không quy định về việc kiến nghị của HĐXX được VKS giải quyết như thế nào?
Đề xuất, kiến nghị
Thứ nhất, bổ sung Điều 282 của BLTTHS 2015 quy định về trường hợp Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trước khi mở phiên tòa như sau: “1. Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:
… b) Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa. Trường hợp Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thẩm quyền thuộc về Hội đồng xét xử”.
Thứ hai, đối với trường hợp rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa: cần bổ sung Điều 285 BLTTHS năm 2015 theo hướng VKS được quyền rút một phần, hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa, như sau: “Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Hình sự thì Viện kiểm sát có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án phần đã rút”.
Thứ ba, bổ sung vào Điều 319 BLTTHS quy định về việc Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn./.
NGUYỄN TẤT TRÌNH
Tòa án Quân sự Khu vực 1 Quân khu 5
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực
3. Mở đợt cao điểm kiểm tra, xử lý vi phạm liên quan đến lắp camera trên xe ôtô kinh doanh vận tải
(LSVN) - Thanh tra Bộ Giao thông Vận tải vừa có văn bản gửi thanh tra Sở Giao thông Vận tải các địa phương về việc mở đợt cao điểm kiểm tra, xử lý vi phạm liên quan đến lắp camera trên xe ôtô kinh doanh vận tải trong vòng một tháng.
Ảnh minh họa.
Trước đó, theo quy định tại Nghị định số 10/2020/NĐ-CP và Nghị quyết 66/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ, các ôtô kinh doanh vận tải từ 9 chỗ trở lên, xe container, xe đầu kéo phải hoàn thành việc lắp camera giám sát trên xe ôtô trước ngày 31/12/2021.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, một số phương tiện thông tin đại chúng có phản ánh về việc còn nhiều xe ôtô kinh doanh vận tải chưa lắp camera giám sát và số xe bị xử phạt ít.
Để tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm, Thanh tra Bộ Giao thông Vận tải đề nghị thanh tra các Sở Giao thông Vận tải kiểm tra, xử lý vi phạm liên quan đến lắp camera trên xe ôtô kinh doanh vận tải; xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện đợt cao điểm kiểm tra, xử lý vi phạm liên quan đến camera giám sát lắp trên xe ôtô kinh doanh vận tải. Thời gian thực hiện đợt cao điểm từ ngày 20/5 đến ngày 20/6/2022.
Theo thông tin từ Tổng cục Đường bộ Việt Nam, tại Nghị định 10/2020//NĐ-CP quy định, từ ngày 01/01/2022, số xe ôtô kinh doanh vận tải hành khách từ 9 chỗ trở lên, xe container, xe đầu kéo thuộc diện phải lắp camera giám sát trên cả nước là gần 207.000 xe.
Đến giữa tháng 4/2022, tổng số phương tiện đã lắp đặt và truyền dữ liệu về hệ thống xử lý dữ liệu của Tổng cục Đường bộ khoảng trên 150.000 xe, đạt tỷ lệ khoảng 72%. Số phương tiện hơn 50.000 xe còn lại chưa lắp có thể do nguyên nhân đã ngừng hoặc chưa hoạt động kinh doanh vận tải trở lại do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Nghị định số 123/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xe kinh doanh vận tải chưa lắp camera giám sát khi tham gia giao thông sẽ bị xử phạt 1-2 triệu đồng đối với lái xe; từ 5-6 triệu đồng đối với cá nhân và 10-12 triệu đồng đối với tổ chức không lắp camera. Phương tiện bị thu hồi phù hiệu 1-3 tháng.
VĂN QUANG
Những địa phương nào đang chậm triển khai thu phí không dừng?
Điều kiện để hưởng BHXH một lần là sau một năm nghỉ việc
(LSVN) - Ngày 07/8/2021, bà Nguyễn Hoài Yến Nhi dừng làm việc tại công ty cũ, nhưng do dịch COVID-19 nên tới ngày 29/9/2021 Cơ quan BHXH mới chốt sổ BHXH cho bà. Vậy, nếu bà Nhi muốn rút BHXH một lần thì phải 1 năm sau ngày nghỉ việc hay 1 năm sau ngày chốt sổ BHXH bà mới được làm thủ tục nhận BHXH một lần?
Liên quan đến vấn đề này, theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, về điều kiện hưởng BHXH một lần, tại Khoản 1, Điều 8 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ quy định người lao động mà có yêu cầu thì được hưởng BHXH một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại các Khoản 1, 2 và 4 Điều 54 của Luật BHXH mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH hoặc theo quy định tại Khoản 3 Điều 54 của Luật BHXH mà chưa đủ 15 năm đóng BHXH và không tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện;
- Sau một năm nghỉ việc mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH và không tiếp tục đóng BHXH;
- Ra nước ngoài để định cư;
- Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế.
Đối chiếu quy định nêu trên, điều kiện để hưởng BHXH một lần là sau một năm nghỉ việc. Đề nghị bà Nhi liên hệ cơ quan BHXH tại địa phương để được hướng dẫn cụ thể.
TIẾN HƯNG