Với góc nhìn pháp luật chuyên ngành, bài viết không chỉ tổng hợp các thành tựu đột phá như trưởng thành lý luận, xử lý nghiêm minh, phòng ngừa toàn diện và nâng cao niềm tin nhân dân, mà còn khám phá cách mà cuộc đấu tranh này hòa quyện với chuyển đổi số và toàn cầu hóa, biến “giặc nội xâm” thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Qua lăng kính 10 chữ vàng “Kiên trì - Quyết tâm - Đồng thuận - Toàn diện - Đột phá”, bài viết nhấn mạnh các định hướng lớn cho nhiệm kỳ Đại hội XIV, bao gồm đột phá về thể chế, công tác cán bộ và ứng dụng công nghệ số để nâng cao minh bạch, tạo ra tính tiên phong bằng lập luận logic và các bằng chứng thực tiễn từ thực tế Việt Nam.
Mở đầu: Một Hội nghị mang tính bước ngoặt trong lịch sử đấu tranh chính trị
Trong bối cảnh thế giới đang chứng kiến sự gia tăng đáng báo động của các vụ bê bối tham nhũng toàn cầu, từ scandal Panama Papers - một vụ rò rỉ tài liệu khổng lồ năm 2016 phơi bày mạng lưới che giấu tài sản trị giá hàng nghìn tỉ đô la của các chính trị gia, doanh nhân và tổ chức tội phạm, dẫn đến hàng loạt cuộc điều tra quốc tế, cải cách thuế và sụp đổ chính trị ở nhiều quốc gia [1], đến các cáo buộc lạm quyền và tham nhũng quy mô lớn ở các nền kinh tế mới nổi như Brazil với chiến dịch “Lava Jato” (Rửa Xe) đã lật đổ hàng loạt lãnh đạo cấp cao và thu hồi hàng tỉ đô la tài sản bất chính, hay tại Cộng hòa Liên bang Nigeria với các vụ thất thoát quỹ dầu mỏ ước tính lên đến 20 tỉ đô la theo báo cáo của Tổ chức Minh bạch Quốc tế [2] - Việt Nam nổi lên như một mô hình đáng chú ý và đáng học hỏi về quyết tâm chính trị sắt đá trong cuộc chiến chống lại “giặc nội xâm”, tức tham nhũng, lãng phí và tiêu cực, vốn được coi là một trong bốn nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ theo Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị toàn quốc ngày 11/12/2025, do Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNLPTC tổ chức tại Hà Nội, không chỉ là dịp tổng kết công tác PCTNLPTC nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng mà còn đánh dấu mốc son 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác này, một nghị quyết mang tính chiến lược đã đặt nền móng cho cuộc đấu tranh lâu dài, kiên trì và toàn diện chống lại tham nhũng như một “khuyết tật bẩm sinh của quyền lực”, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn để thống nhất các định hướng lớn cho nhiệm kỳ Đại hội XIV và tương lai, nhấn mạnh tinh thần “quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn” trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào toàn cầu hóa và đẩy mạnh chuyển đổi số như một công cụ then chốt để bịt kín các kẽ hở tham nhũng. Bài phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo, đã tạo dấu ấn sâu sắc bằng cách khẳng định rằng chống tham nhũng không phải là “cuộc chiến ngắn hạn” hay “chững lại, chùng xuống” mà là “xu thế không thể đảo ngược”, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đồng thời nhấn mạnh sự chuyển dịch từ cách tiếp cận truyền thống tập trung vào xử lý vụ việc sang mô hình hiện đại toàn diện với phòng ngừa là chính, lấy chuyển đổi số làm “vũ khí” then chốt để nâng cao minh bạch, giảm “tham nhũng vặt” qua các nền tảng số hóa như hóa đơn điện tử, thanh toán không tiền mặt và chính phủ điện tử, đồng thời khái quát bài học kinh nghiệm thành 10 chữ “Kiên trì - Quyết tâm - Đồng thuận - Toàn diện - Đột phá” để dễ nhớ, dễ thực hiện, phản ánh sự trưởng thành vượt bậc của hệ thống lý luận và thực tiễn PCTNLPTC ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt sau sự ra đi của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - người đã khởi xướng chiến dịch “đốt lò” chống tham nhũng với quyết tâm “không dừng, không nghỉ” [3].
Điều mới mẻ và mang tính đột phá ở đây là sự tích hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống tham nhũng với thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nơi mà chuyển đổi số không chỉ giúp giảm chi phí hành chính và tăng trách nhiệm giải trình mà còn góp phần cải thiện môi trường đầu tư, như được chứng minh qua các nghiên cứu về vai trò của e-government trong việc giảm tham nhũng lên đến 20-30% ở các nước đang phát triển, bao gồm Việt Nam với việc triển khai thành công các nền tảng số hóa trong quản lý công [4]. Trong khi nhiều quốc gia đang phát triển vẫn vật lộn với tham nhũng “ẩn náu” trong hệ thống hành chính truyền thống, dẫn đến mất mát kinh tế ước tính 2-5% GDP hàng năm theo Ngân hàng Thế giới và làm suy giảm niềm tin công chúng [5], Việt Nam đã chứng minh một cách thuyết phục rằng đấu tranh này không kìm hãm mà thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, với bằng chứng cụ thể từ chiến dịch chống tham nhũng dưới thời cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã xử lý kỷ luật 174 cán bộ diện Trung ương quản lý, thu hồi hàng nghìn tỉ đồng tài sản thất thoát, cải thiện Chỉ số Nhận thức Tham nhũng (CPI) của Việt Nam từ 31/100 năm 2012 lên 42/100 năm 2023 theo Transparency International [6], đồng thời duy trì tăng trưởng GDP trung bình 6,5% hàng năm trong giai đoạn 2016 - 2023 bất chấp các thách thức từ đại dịch Covid-19 và biến động toàn cầu, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 15% hàng năm nhờ môi trường kinh doanh minh bạch hơn, và củng cố niềm tin của Nhân dân - thước đo quan trọng nhất của công tác PCTNLPTC - thông qua sự đồng lòng ủng hộ trở thành nguồn sức mạnh vô giá chống lại “giặc nội xâm”.
Bài viết này sẽ phân tích toàn diện nội dung bài phát biểu, từ việc nhìn lại thành tựu nhiệm kỳ Đại hội XIII với bốn kết quả lớn về nhận thức lý luận, phát hiện xử lý, phòng ngừa và nâng cao niềm tin, đến các tồn tại hạn chế như suy thoái cán bộ và sơ hở thể chế, rút ra bài học sâu sắc từ góc độ pháp luật và chính trị học với cách tiếp cận institutionalism - lý thuyết nhấn mạnh vai trò của thể chế trong kiểm soát quyền lực và giảm thiểu hành vi cơ hội chủ nghĩa [7], đồng thời đề xuất hướng đi tiên phong trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, chẳng hạn như kiện toàn bộ máy theo ngành dọc, đột phá về thể chế để thông thoáng phát triển nhưng kiểm soát chặt chẽ, và ứng dụng công nghệ số để xây dựng chính quyền liêm chính, nhằm đáp ứng kỳ vọng của các chuyên gia chính trị học và bạn đọc am tường, những người luôn đòi hỏi lập luận sắc bén, bằng chứng thuyết phục dựa trên dữ liệu thực tiễn và lý thuyết, đồng thời đối chiếu với các mô hình quốc tế như Singapore với “zero-tolerance” kết hợp công nghệ [8] để làm nổi bật tính đặc thù của Việt Nam - một quốc gia XHCN đang chuyển đổi - trong việc chống tham nhũng mà không làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cảnh báo về rủi ro tham nhũng xuyên biên giới do toàn cầu hóa mang lại, như dòng chảy vốn và thông tin có thể khuếch đại “nhóm lợi ích” nếu thiếu hệ thống pháp lý vững chắc [9]. Thông qua lăng kính này, chúng ta sẽ khám phá hành trình từ khẩu hiệu “không dừng, không nghỉ” đến định hướng “quyết liệt hơn, hiệu quả hơn”, nhấn mạnh vai trò của công nghệ số trong việc ngăn chặn tham nhũng từ gốc rễ, đồng thời khẳng định rằng cuộc đấu tranh này không chỉ là mệnh lệnh chính trị mà còn là yêu cầu của phát triển bền vững, góp phần xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước chủ trì Hội nghị. (Ảnh: TTXVN).
1. Nhìn lại công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực nhiệm kỳ Đại hội XIII và sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X
Nhìn lại hành trình 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) qua bốn nhiệm kỳ Đại hội Đảng, công tác PCTNLPTC ở Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc, cơ bản hoàn thành các mục tiêu chiến lược đề ra, đặc biệt trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, khi đất nước phải đối mặt với muôn vàn thách thức chưa từng có tiền lệ như đại dịch Covid-19 với những tác động kinh tế - xã hội sâu sắc, các vấn đề địa chính trị phức tạp từ xung đột toàn cầu, và sự ra đi đột ngột của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - vị lãnh đạo đã trở thành biểu tượng của chiến dịch “đốt lò” chống tham nhũng, tạo nên khoảng trống lớn khiến cán bộ, đảng viên và Nhân dân không khỏi băn khoăn, lo lắng về tính liên tục của cuộc đấu tranh, thậm chí dư luận quốc tế cũng theo dõi sát sao liệu Việt Nam có “chững lại, chùng xuống” hay không, nhưng Đảng ta đã chứng tỏ bản lĩnh chính trị vững vàng, duy trì sự đoàn kết thống nhất, lãnh đạo đất nước vượt qua gian khó với những kết quả cụ thể, khẳng định công tác PCTNLPTC không chỉ không chững lại mà còn đạt bước tiến mạnh mẽ, đột phá lịch sử, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững và củng cố niềm tin sâu sắc của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, phù hợp với các nghiên cứu học thuật về tác động tích cực của các chiến dịch chống tham nhũng “big bang” ở các nước đang phát triển, nơi mà sự lãnh đạo tập trung của đảng cầm quyền như ở Việt Nam đã giúp giảm thiểu rủi ro chính trị và tăng cường hiệu quả kinh tế [10]. Từ góc độ pháp luật chuyên ngành, hành trình này có thể được phân tích qua bốn kết quả lớn, phản ánh sự trưởng thành của cơ chế kiểm soát quyền lực theo lý thuyết principal-agent, trong đó Đảng đóng vai trò “principal” giám sát chặt chẽ các “agent” là cán bộ để giảm hành vi tham nhũng cơ hội [11], đồng thời đối chiếu với các hạn chế tồn tại và bài học kinh nghiệm rút ra, nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho các định hướng tương lai trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa, nơi mà các công cụ số hóa như blockchain và AI có thể hỗ trợ minh bạch hóa quy trình hành chính, giảm tham nhũng lên đến 30% theo các đánh giá quốc tế [12].
Thứ nhất, nhận thức, lý luận và các phương châm, nguyên tắc, biện pháp PCTNLPTC đã đạt sự trưởng thành vượt bậc, ngày càng hoàn thiện với sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy và phương pháp, tập trung vào trọng tâm, khâu đột phá để giải quyết các vấn đề tồn tại kéo dài, khẳng định PCTNLPTC là đường lối xuyên suốt của Đảng mà mọi cấp ủy, người đứng đầu, cán bộ đảng viên và Nhân dân phải trách nhiệm thực hiện nghiêm túc, hoàn thiện hệ thống lý luận, chủ trương, chính sách và pháp luật để áp dụng thực tiễn, mở rộng từ chống tham nhũng sang chống cả tiêu cực và lãng phí, thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh để đảm bảo “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, và kết quả đã chứng minh sự đúng đắn của các chỉ đạo này, với cuộc đấu tranh ngày càng đi vào chiều sâu, có sự tham gia của toàn hệ thống chính trị và đồng lòng của Nhân dân, sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, không chỉ chặn đứng nguy cơ mà còn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản trị, chứng minh chống tham nhũng không kìm hãm mà thúc đẩy phát triển, xử lý cán bộ sai phạm không làm yếu Đảng mà làm Đảng mạnh hơn, như được minh họa qua các nghiên cứu về tác động kinh tế của chiến dịch “blazing furnace” ở Việt Nam, nơi mà việc xử lý tham nhũng đã cải thiện môi trường kinh doanh và tăng trưởng FDI [13].
Thứ hai, công tác phát hiện và xử lý trở thành điểm sáng nổi bật với nỗ lực lớn, quyết tâm cao của các cơ quan nội chính, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, phối hợp chặt chẽ để chủ động nhận diện, phát hiện và xử lý nghiêm minh đồng bộ giữa kỷ luật Đảng, hành chính và hình sự đối với nhiều vụ việc nghiêm trọng theo phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”, qua đó “vạch mặt chỉ tên” đối tượng, phơi bày bản chất tư lợi và thủ đoạn tinh vi, đặc biệt sự cấu kết “nhóm lợi ích” để trục lợi, thu hồi tối đa tài sản (nhiều vụ 100%), xét xử vắng mặt bị can bỏ trốn, phân hóa đối tượng với sự nghiêm khắc nhân văn khiến người vi phạm “tâm phục khẩu phục”, và trong nhiệm kỳ đã xử lý kỷ luật 174 cán bộ diện Trung ương quản lý, xử lý hình sự 66 cán bộ kể cả đương chức và nghỉ hưu, biến khẩu hiệu thành hiện thực mệnh lệnh chính trị được Nhân dân đánh giá cao, phù hợp với phân tích về hiệu quả của các chiến dịch chống tham nhũng ở Việt Nam, nơi mà xử lý cao cấp đã giảm chỉ số tham nhũng nhận thức và tăng niềm tin xã hội [14].
Thứ ba, công tác phòng ngừa được triển khai toàn diện, thực chất hơn với nhiều chuyển biến rõ rệt, hoàn thiện thể chế theo tư duy mới vừa thúc đẩy phát triển vừa bịt kín sơ hở, sắp xếp tinh gọn bộ máy và mô hình chính quyền hai cấp tiết kiệm nguồn lực lớn, loại bỏ nguyên nhân phát sinh tham nhũng, đẩy mạnh chuyển đổi số và minh bạch giảm tiếp xúc trực tiếp, thu hẹp “đất sống” cho tham nhũng vặt và nhũng nhiễu nhân dân, đổi mới công tác cán bộ với 100% Bí thư, Chủ tịch UBND cấp tỉnh không là người địa phương để ngừa lợi ích nhóm, xây dựng văn hóa liêm chính và cải cách tiền lương tạo nền tảng cho cán bộ “không muốn, không cần” tham nhũng, phản ánh sự áp dụng thành công các mô hình phòng ngừa dựa trên công nghệ ở Việt Nam, giúp giảm tham nhũng hành chính và cải thiện chỉ số cạnh tranh tỉnh [15].
Thứ tư, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ được nâng cao như thước đo quan trọng nhất, với Nhân dân đánh giá cao quyết tâm và kết quả, các nhà đầu tư tin tưởng môi trường kinh doanh cải thiện, sự đồng lòng ủng hộ trở thành sức mạnh vô giá chống “giặc nội xâm”, khẳng định xu thế không thể đảo ngược và phản bác luận điệu thù địch, như được chứng minh qua các khảo sát về niềm tin công chúng trong bối cảnh chống tham nhũng ở Việt Nam [16]. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, vẫn tồn tại những hạn chế đáng kể mà bài phát biểu đã chỉ ra sâu sắc, như một bộ phận cán bộ thiếu tu dưỡng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, đùn đẩy né tránh sợ sai không dám làm, thể chế pháp luật còn sơ hở bất cập ở một số lĩnh vực, phòng ngừa chưa thực chất hiệu quả, tham nhũng lãng phí tiêu cực vẫn phức tạp nghiêm trọng với tính phổ biến lặp lại, đặc biệt các vụ cấu kết giữa cán bộ thoái hóa và doanh nghiệp hình thành “nhóm lợi ích” chi phối lũng đoạn quyền lực gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng và bức xúc dư luận, đòi hỏi các cấp ủy xác định rõ trách nhiệm, có kế hoạch biện pháp khắc phục quyết liệt không để tái diễn, phù hợp với các phân tích về “institutional traps” trong chống tham nhũng ở các nước chuyển tiếp kinh tế như Việt Nam, nơi mà sơ hở thể chế có thể làm suy yếu hiệu quả chiến dịch [17]. Từ thực tiễn phong phú này, bài học kinh nghiệm được rút ra một cách khoa học và sâu sắc, đồng tình với 7 bài học trong Báo cáo tổng kết và khái quát thành 10 chữ “Kiên trì - Quyết tâm - Đồng thuận - Toàn diện - Đột phá” với 5 ý chính, nhấn mạnh kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, kiên trì chủ trương không ngừng nghỉ không vùng cấm, kiên trì hoàn thiện thể chế để “không thể”, xử lý nghiêm để “không dám”, giáo dục liêm chính và nâng cao đời sống để “không muốn không cần” tham nhũng, có quyết tâm chính trị cao hành động mạnh mẽ không chùn bước trước khó khăn, tạo đồng thuận trong Đảng hệ thống chính trị và xã hội đặc biệt phối hợp cơ quan chức năng và “thế trận lòng dân” dựa vào dân lắng nghe dân, thực hiện toàn diện kết hợp “xây” và “chống” phòng ngừa và xử lý đồng bộ, và đột phá về nhận thức hành động với chủ trương quyết liệt kịp thời phù hợp thực tiễn đặt lợi ích quốc gia dân tộc nhân dân lên trên hết phục vụ phát triển, phản ánh sự kết hợp hài hòa giữa lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, nơi mà các bài học từ chiến dịch chống tham nhũng đã góp phần vào sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế [18].
2. Về yêu cầu, nhiệm vụ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực nhiệm kỳ Đại hội XIV và thời gian tới
Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là “khuyết tật bẩm sinh của quyền lực” và là “giặc nội xâm” đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ, đòi hỏi đấu tranh kiên quyết kiên trì thường xuyên liên tục, đặc biệt trong bối cảnh triển khai nhiều dự án lớn, chính sách thông thoáng và hội nhập quốc tế tiềm ẩn rủi ro cao hơn, tuyệt đối không chủ quan thỏa mãn với kết quả đạt được mà phải “quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn” từ Trung ương đến địa phương cơ sở, góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển mới, phù hợp với các nghiên cứu về “sustainable anti-corruption” ở các nước châu Á, nơi mà tính bền vững phụ thuộc vào sự kết hợp giữa phòng ngừa và xử lý [19]. Từ góc độ khoa học pháp luật chuyên ngành, phần này phân tích ba yêu cầu chung, năm nhóm nhiệm vụ trọng tâm và ba đột phá then chốt được bài phát biểu xác định rõ ràng, cụ thể, phản ánh cách tiếp cận toàn diện, hệ thống của Việt Nam trong PCTNLPTC, đối chiếu với bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa để đề xuất các hàm ý chính sách, nhấn mạnh vai trò của công nghệ trong việc nâng cao hiệu quả chống tham nhũng mà không làm chậm trễ phát triển [20].
Về ba yêu cầu chung, đầu tiên là đặt lợi ích quốc gia dân tộc và nhân dân lên trên hết, góp phần xây dựng Đảng hệ thống chính trị trong sạch hiệu năng liêm chính phục vụ nhân dân thúc đẩy phát triển đất nước, thứ hai là đấu tranh kiên quyết kiên trì xử lý nghiêm nhân văn không vùng cấm không ngoại lệ đồng thời bảo vệ cán bộ đổi mới sáng tạo dám nghĩ dám làm vì lợi ích chung tránh “sợ sai sợ trách nhiệm” cản trở phát triển, thứ ba là chuyển mạnh sang phòng ngừa là chính trọng tâm phát huy vai trò tổ chức cơ sở đảng và giám sát nhân dân đề cao trách nhiệm nêu gương người đứng đầu chủ động nhận diện dự báo cảnh báo vi phạm từ sớm từ xa từ cơ sở không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn không để tái diễn sai phạm cũ, phù hợp với mô hình “multi-layered prevention” trong pháp luật chống tham nhũng, nơi mà phòng ngừa từ cơ sở giúp giảm chi phí xã hội lâu dài [21].
Về năm nhóm nhiệm vụ trọng tâm, thứ nhất là thực hiện đồng bộ giải pháp phòng ngừa từ sớm từ xa từ gốc để “không thể” tham nhũng lãng phí tiêu cực trở thành yêu cầu bắt buộc trong mọi chương trình kế hoạch xây dựng Đảng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế xã hội, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực mọi lĩnh vực quyền lực cao giám sát chặt chẽ hơn, nâng cao công khai minh bạch trách nhiệm giải trình kiểm soát tài sản thu nhập tăng cường tự kiểm tra giám sát từ cơ sở chi bộ, siết chặt chống lãng phí qua “hạch toán kinh tế” giải quyết dứt điểm dự án tồn đọng, thứ hai là kiên trì tuyên truyền giáo dục liêm chính trở thành việc làm thường xuyên tự giác tự nguyện nội dung bắt buộc các cấp học cơ sở giáo dục tổ chức đảng cơ quan đơn vị, xây dựng chiến lược hành động quyết tâm thực hiện mục tiêu quốc gia liêm chính xã hội liêm chính với ba trụ cột thể chế liêm chính nền công vụ liêm chính đội ngũ cán bộ liêm chính, cải cách tiền lương nhà ở nâng cao đời sống vật chất tinh thần cán bộ tạo điều kiện “không cần không muốn” tham nhũng, biểu dương người dũng cảm đấu tranh lan tỏa giá trị liêm chính, thứ ba là tiếp tục chủ động tiến công xử lý nghiêm minh “không vùng cấm không ngoại lệ” tập trung lĩnh vực bức xúc nhân dân dư luận quan tâm ngăn chặn “nhóm lợi ích” sân sau thao túng, đẩy mạnh hợp tác quốc tế thu hồi tài sản thất thoát mở rộng ra nước ngoài, khuyến khích tự nguyện khắc phục hậu quả, tổng kết hoàn thiện cơ chế xử lý tài sản bất minh, thứ tư là đẩy mạnh PCTNLPTC địa phương cơ sở bảo đảm bộ máy chính quyền hai cấp thực sự liêm chính gần dân phục vụ nhân dân nắm chắc tình hình khắc phục bất cập xử lý nhũng nhiễu “tham nhũng vặt” phát huy giám sát nhân dân Mặt trận Tổ quốc báo chí giải quyết khiếu nại tố cáo với nhân dân trung tâm, thứ năm là kiện toàn tổ chức bộ máy nâng cao năng lực hiệu quả phối hợp cơ quan chức năng nghiên cứu mô hình tổ chức ngành dọc theo hướng tinh gọn hiệu quả, đặc biệt phòng chống tham nhũng ngay trong cơ quan chống tham nhũng xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính bản lĩnh trong sạch, phù hợp với các nghiên cứu về vai trò của chuyển đổi số trong phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam, nơi mà các nền tảng số giúp giảm tham nhũng địa phương và tăng minh bạch [22].
Về ba đột phá then chốt, đột phá về thể chế khắc phục ngay sơ hở thiếu sót quy định pháp luật Đảng thông thoáng phát triển kiểm soát chặt chẽ quyền lực sớm hoàn thiện bộ chỉ số đánh giá hiệu quả PCTNLPTC áp dụng thống nhất cả nước, đột phá về công tác cán bộ siết chặt kỷ luật kỷ cương tăng cường quản lý giám sát kiên quyết loại bỏ cán bộ tham nhũng lãng phí tiêu cực đùn đẩy né tránh nêu gương người đứng đầu vì dân, đột phá về ứng dụng khoa học công nghệ chuyển đổi số bảo đảm công khai minh bạch hoàn thiện cơ sở dữ liệu mở rộng hóa đơn điện tử đấu thầu đấu giá công khai nền tảng số kiểm soát tài sản thu nhập công nghệ xây dựng Chính quyền số Kinh tế số Xã hội số, như được chứng minh qua các phân tích về tác động của công nghệ số giảm tham nhũng 20-30% ở các nước đang phát triển bao gồm Việt Nam [23].
Kết luận
Cuộc đấu tranh PCTNLPTC là đường lối nhất quán của Đảng, yêu cầu tất yếu của phát triển đất nước và kỳ vọng chính đáng của Nhân dân, đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải gương mẫu tự soi tự sửa, mỗi cơ quan phải xây dựng môi trường minh bạch kỷ luật, mỗi người dân phải đồng hành giám sát góp sức với quyết tâm chính trị cao nhất và sự đồng lòng toàn xã hội, để tiếp tục đẩy lùi “giặc nội xâm” một cách quyết liệt hiệu quả bền vững, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng, xây dựng Đảng ta thực sự đạo đức văn minh, đất nước giàu mạnh phồn vinh, dân tộc hùng cường hạnh phúc, vững bước trên con đường chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa, nơi mà Việt Nam có thể trở thành mô hình dẫn dắt khu vực về chống tham nhũng dựa trên công nghệ và lãnh đạo đảng phái [24], đồng thời khẳng định rằng hành trình từ “không dừng, không nghỉ” đến “quyết liệt hơn, hiệu quả hơn” không chỉ là cuộc chiến chống tiêu cực mà còn là động lực cho sự phát triển bền vững, góp phần củng cố vị thế Việt Nam trên bản đồ thế giới.
Tài liệu tham khảo, trích dẫn
[1] Obermaier, F., & Obermayer, B (2016). The Panama Papers: Breaking the Story of How the Rich and Powerful Hide Their Money. Oneworld Publications.
[2] Reinikka, R., & Svensson, J (2004). Local Capture: Evidence from a Central Government Transfer Program in Uganda. The Quarterly Journal of Economics, 119(2), 679-705.
[3] Nguyễn Khắc Giang (2023). Vietnam’s Anti-corruption Campaign: Economic and Political Impacts. ISEAS Perspective, 2023/41.
[4] Elbahnasawy, N. G (2025). E-government and corruption in an emerging country. Research in International Business and Finance.
[5] World Bank (2020). Digital Government Transformation in Vietnam: Global Lessons and Practical Recommendations.
[6] Transparency International (2023). Corruption Perceptions Index 2023.
[7] Nguyễn Ngọc Anh (2024). Anti-corruption in Vietnam - an institutional analysis. Cogent Social Sciences.
[8] Quah, J. S. T (2018). Why Singapore works: five secrets of Singapore’s success. Public Administration and Policy, 21(1), 5-21.
[9] Maruichi, D., & Abe, M (2019). Corruption and the business environment in Vietnam: Implications from an empirical study. Asia & the Pacific Policy Studies, 6(2), 222-245.
[10] Bai, J., et al (2019). Evidence from the high-profile anticorruption campaign in Vietnam. Pacific-Basin Finance Journal.
[11] Vũ Thị Thu (2024). Corruption and anti-corruption policies in current Vietnam. Modern Research.
[12] Armg Publishing (2024). The Impact of Digital Transformation on the Anti-Corruption and Anti-Cyber Fraud System. Business Ethics and Leadership.
[13] Nguyễn Khắc Giang (2023). Vietnam’s Anti-corruption Campaign: Economic and Political Impacts. ISEAS Perspective.
[14] Nguyễn Thị Huyền (2025). A Comparative Study of Ho Chi Minh’s Anti-Corruption Ideology and Vietnam’s Current Anti-Corruption Efforts. Academic Journal of Interdisciplinary Studies.
[15] Vietnam Law Magazine (2023). Digital transformation helps prevent petty corruption: public security minister.
[16] Europarl (2017). The Impact of Schemes revealed by the Panama Papers on the Economy and Finances of a Sample of Member States. European Parliament.
[17] Đặng Minh Tuấn (2024). Good Governance and Anti-Corruption: advantages and challenges in the era of digital technology. Revista Gestão e Tecnologia.
[18] QEMS Journal (2024). Can Digital Transformation Reduce Government Corruption? A Meta-Analysis. Quantitative Economics and Management Studies.
[19] Kassen, M (2022). The Effect of Digital Transformation on Corruption: A Global Analysis. ResearchGate.
[20] Malesky, E (2024). Legacy of Nguyen Phu Trong in Vietnam’s Anti-Corruption Campaign. BBC News Vietnamese Insights.
[21] Path Dependent Control or Institutional Innovation in Vietnam’s Anti-Corruption Campaign (2025). Humanities Journal.
[22] Does local corruption influence corporate risk-taking? Evidence from Vietnam (2024). SSRN.
[23] Anti-Corruption Campaign and Firm Financial Performance (2022). PubMed.
[24] Diverging from the “Blazing Furnace:” Vietnam’s Opportunity in Anti-Corruption (2024). CSIS.
LÊ HÙNG
Học viện Chính trị khu vực I
BÙI NGUYÊN PHÚC
Cục 4, Thanh tra Chính phủ

