Trong mối quan hệ với cơ quan nhà nước, Luật sư tác động đến các cơ quan nhà nước để các cơ quan đó thực hiện đúng pháp luật, tránh chủ quan, duy ý chí, tránh oan sai. Ngoài ra, Luật sư còn có vai trò quan trọng trong định hướng dư luận, xây dựng văn bản pháp luật và hoạch định các chính sách thông qua việc đóng góp ý kiến. Bào chữa là một trong những chức năng quan trọng của Luật sư, góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Tuy nhiên, trong từng mô hình tố tụng khác nhau của các quốc gia trên thế giới, việc phát huy vai trò bào chữa của Luật sư được thể hiện dưới những góc độ khác nhau.
Khái niệm về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
Trong từ điển tiếng Việt: “Bào chữa là hoạt động dùng lý lẽ, chứng cứ để bênh vực một việc”[1].
Trong lĩnh vực pháp lý, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm bào chữa, quyền bào chữa và người bào chữa:
PGS. TS. Phạm Hồng Hải cho rằng: “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”[2].
PGS. TS. Hoàng Thị Sơn đưa ra quan điểm: “quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc trách nhiệm cho họ”[3].
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Quyền bào chữa chỉ dành cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chứ không dành cho những đối tượng tham gia Tố tụng hình sự khác và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội của các Cơ quan tiến hành tố tụng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đối với việc bảo vệ các quyền và lợi ích khác của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không trực tiếp liên quan đến việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của họ trong vụ án thì không thuộc về giới hạn của quyền bào chữa. Tuy nhiên, khi đã bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án thì người bào chữa cũng đồng thời giúp bị can, bị cáo trong việc bảo vệ các quyền đó của họ[4].
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã mở rộng cũng như ghi nhận nhiều điểm tiến bộ hơn đối với Quyền bào chữa của bị can, bị cáo như: thời điểm được tham gia bào chữa của người bào chữa vào hoạt động tố tụng sớm hơn, bảo đảm quyền bào chữa ngay từ khi bị giữ, bị bắt; ngoài bị can, bị cáo thì quyền bào chữa còn thuộc về người bị giữ, bị bắt; ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; mở rộng khái niệm người bào chữa,...
Khái niệm Người bào chữa được ghi nhận tại điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau :
“1. Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
2. Người bào chữa có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện của người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân;
d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý".
Để trở thành người bào chữa cho người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) trong một vụ án, Luật sư phải được Cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Hồ sơ đăng ký bào chữa của Luật sư bao gồm: Thẻ Luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu Luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội.Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 76 (chỉ định người bào chữa), Luật sư xuất trình thẻ Luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử Luật sư của tổ chức hành nghề Luật sư nơi Luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn Luật sư đối với Luật sư hành nghề là cá nhân[5].
Vai trò bào chữa của Luật sư trong mô hình tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng tranh tụng có nguồn gốc từ mô hình tố tụng tố cáo và phát triển mạnh mẽ ở các nước theo hệ thống luật án lệ như Anh và Mỹ. Tính chất “tranh tụng” của tố tụng hình sự các nước thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau:
Tố tụng tranh tụng cho rằng, sự thật sẽ được mở ra thông qua sự tranh luận tự do và cởi mở giữa hai bên (một bên là Nhà nước và bên kia là người bị buộc tội) có các dữ kiện chính xác về vụ việc. Tố tụng tranh tụng đề cao luật hình thức (thủ tục tố tụng) hơn luật nội dung. Thủ tục tố tụng tại phiên toà được thực hiện công khai, bằng miệng và tuân thủ triệt để nguyên tắc tranh tụng. Bên buộc tội và bên bào chữa tham gia phiên tòa với tư cách là hai đối thủ có trách nhiệm chứng minh về sự có tội hay vô tội của bị cáo.
Tố tụng tranh tụng không có giai đoạn điều tra, mọi chứng cứ hoàn toàn do các bên tự thu thập và chỉ được đưa ra tranh luận tại phiên xét xử. Bên buộc tội và bên bào chữa sử dụng quyền kiểm tra chéo đối với người làm chứng để xác định tính trung thực hay sự thiên vị trong các lời khai của họ. Hoạt động bào chữa được thực hiện xuyên suốt trong cả quá trình giải quyết vụ án mà không đơn thuần chỉ giới hạn trong việc bào chữa tại phiên Toà. Đối với mô hình tố tụng tranh tụng thì hoạt động tranh tụng được diễn ra ngay từ khi khởi tố vụ án. Hồ sơ được thu thập cả từ hai phía (bên buộc tội và bên gỡ tội). Theo quy định của pháp luật thì bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền như nhau, họ cùng thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ và tranh tụng công khai tại phiên tòa, tòa án sẽ không biết trước được hồ sơ của hai bên cho đến khi mở phiên điều trần. Tòa án chỉ là trọng tài để xem xét những chứng cứ buộc tội và những chứng cứ gỡ tội qua các phiên điều trần. Việc điều tra được thực hiện công khai tại các phiên điều trần. Việc quyết định bị cáo có tội hay không căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và do bồi thẩm đoàn quyết định.
Đây chính là đặc điểm thể hiện rất rõ vai trò của Luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự theo mô hình tranh tụng. Trong mô hình tố tụng tranh tụng, vai trò của Luật sư hết sức quan trọng và không thể thiếu. Họ không tham gia vào quá trình tố tụng với vai trò hỗ trợ, bổ sung mà là một trong những chủ thể chính tiến hành tố tụng. Luật sư là chủ thể bình đẳng, cùng với công tố viên sẽ cùng tham gia giải quyết để tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Chính vì vậy, yếu tố công bằng, bình đẳng, dân chủ cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo được đảm bảo rất cao.
Mặc dù không phải là người có quyền quyết định trong vụ án, nhưng Luật sư bào chữa lại là người có vai trò rất lớn trong việc thuyết phục thẩm phán và bồi thẩm đoàn đưa ra quyết định. Để thực hiện hoạt động bào chữa, Luật sư phải tiến hành thu thập các chứng cứ quan trọng, thuyết phục nhất, phát triển các bằng chứng đó để xuất trình và tranh luận trước Tòa án. Luật sư phải có lý lẽ sắc bén, dự liệu trước được những tình huống sẽ diễn ra trong phiên tòa để chuẩn bị những lập luận có lợi nhất cho thân chủ của mình. Hoạt động bào chữa của Luật sư được thực hiện độc lập, công khai và được các cơ quan tố tụng tạo điều kiện tốt nhất.
Tuy nhiên, không có nghĩa là Luật sư không bị giới hạn về quyền hạn hay tự do làm bất kỳ việc gì có lợi cho khách hàng. Luật pháp các nước đều có quy định những gì Luật sư không được phép làm. Ví dụ, luật pháp Nhật Bản cấm Luật sư bào chữa cố tình đưa ra những lời khai hoặc cung cấp chứng cứ giả mạo cho Tòa án, luật pháp Hoa Kỳ quy định Luật sư bào chữa không được phép dùng những từ ngữ gây kích động bồi thẩm đoàn, không được yêu cầu bồi thẩm đoàn cho rằng họ đang là bị cáo, không được xúc phạm cá nhân công tố viên,...[6].
Vai trò bào chữa của Luật sư trong mô hình tố tụng xét hỏi và mô hình tố tụng hỗn hợp (Mô hình tố tụng của Việt Nam)
Mô hình tố tụng xét hỏi (mô hình tố tụng thẩm vấn) xuất hiện vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, trong các Tòa án tôn giáo và dần dần thâm nhập vào Tòa án thường. Các quốc gia theo mô hình tố tụng này là những quốc gia theo truyền thống luật dân sự, như Pháp, Đức,... Khác với mô hình tố tụng tranh tụng, mô hình tố tụng thẩm vấn coi trọng luật nội dung hơn luật hình thức (thủ tục tố tụng), coi trọng các chứng cứ viết. Mô hình tố tụng này đề cao vai trò tích cực, chủ động của Toà án: Thẩm phán vừa là người đưa ra quyết định điều tra vụ án, vừa là người có trách nhiệm tìm ra sự thật, là người chỉ đạo toàn bộ quá trình tố tụng, kể cả giai đoạn điều tra. Viện công tố có nhiều quyền hạn hơn so với trong tố tụng tranh tụng, có quyền chỉ đạo công tác điều tra, quyết định khởi tố.
Theo quan niệm phổ biến ở các quốc gia theo mô hình tố tụng xét hỏi, Luật sư bào chữa cần được xem là người tham gia vào mắt xích chung gồm thẩm phán và kiểm sát viên. Tất cả họ cùng tham gia vào sự nghiệp công lý chung, có trách nhiệm hoặc được khuyến khích hợp tác với nhau trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để giúp cho Tòa án giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Như vậy, khi thực hiện hoạt động bào chữa cho thân chủ, Luật sư cũng không được bỏ qua lợi ích của xã hội và tính đến ảnh hưởng mà công việc bào chữa có thể tác động đến những người tham dự phiên Tòa. Nói cách khác, Luật sư tham dự phiên Tòa không chỉ để bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật mà còn có nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ cùng tồn tại song hành và có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo thì phải tôn trọng sự thật và tuân thủ pháp chế. Ngược lại, muốn góp phần vào việc bảo vệ công lý, công bằng xã hội thì phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo[7].
Ở Việt Nam thực hiện mô hình tố tụng xét hỏi thiên về thẩm vấn nhưng có thêm yếu tố tranh tụng. Theo đó, hoạt động tố tụng sẽ theo tuần tự từ điều tra, truy tố, rồi đến xét xử. Khi xét xử thì hồ sơ có thể được trả lại cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Trong hoạt động tố tụng hình sự như vậy thì có thể không cần đến người bào chữa, thực tế trước đây rất ít vụ án có người bào chữa. Trường hợp bị can, bị cáo thiếu hiểu biết pháp luật hoặc đang bị giam giữ thì rất ít có cơ hội để gỡ tội cho mình. Hoạt động xét xử theo “trục dọc” (Điều tra - truy tố - xét xử) như vậy (đều do các cơ quan nhà nước thực hiện) đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có tài đức vẹn toàn, phải công tâm, công bằng thì mới đảm bảo được quyền lợi của người bị buộc tội, bị can, bị cáo, đảm bảo lẽ phải, có công lý.
Theo sự phát triển của xã hội cũng như nhận thức của người dân và sự phát triển của nghề nghiệp Luật sư thì vai trò của luật sư trong các vụ án hình sự ngày càng được coi trọng và ghi nhận hơn, đã có nhiều vụ án có sự tham gia của luật sư bào chữa. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã có nhiều điểm tiến bộ, khẳng định rõ vai trò của Luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng nói riêng. Có thể thấy, Người bào chữa có mặt trong hầu hết các hoạt động tố tụng quan trọng của một vụ án hình sự, từ giai đoạn điều tra xác minh tin báo tố giác tội phạm đến các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Luật sư khi tham gia bào chữa trong một vụ án với vai trò đại diện cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa, quyền gỡ tội, thay mặt cho bị can, bị cáo đưa ra những lý lẽ, lập luận, chứng cứ hợp pháp chứng minh những yếu tố gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của vụ án, người bào chữa sẽ phát huy vai trò riêng biệt.
Theo quy định tại Điều 83 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố. Ngay từ giai đoạn cơ quan công an giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, người bị tố giác đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Luật sư, người đại diện của người bị tố giác được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Đặc biệt, Luật sư, người đại diện của người bị tố giác được có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác. Nếu được điều tra viên hoặc kiểm sát viên đồng ý thì họ được gặp, hỏi người bị tố giác, người bị giữ. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì Luật sư, người đại diện… của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác. Họ còn có quyền có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người bị tố giác; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng[8]. Ở giai đoạn này, Luật sư được sử dụng những biện pháp mà mà pháp luật quy định để hướng dẫn thân chủ về thủ tục pháp lý và trình tự tố tụng. Qua đó, giúp ổn định tinh thần của người bị tố giác, bị yêu cầu khởi tố, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ cũng như góp phần giúp cơ quan điều tra trong quá trình xác minh để tìm ra sự thật khách quan.
Trong giai đoạn điều tra luật sư có thể có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, được gặp bị can, bị cáo, thu thập và xuất trình tài liệu, đồ vật, nghiên cứu hồ sơ vụ án; ghi nhận quyền bình đẳng của Luật sư với những người tham gia tranh tụng tại phiên tòa một cách cụ thể hơn so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng quy định khá đầy đủ, chi tiết về quyền của người bào chữa.
Trong tố tụng xét hỏi, ở giai đoạn điều tra thì việc thu thập chứng cứ buộc tội và gỡ tội đều do cơ quan điều tra thu thập là chủ yếu. Hoạt động điều tra diễn ra không có sự kiểm soát của tòa án. Trong quá trình điều tra, nếu bị can, bị cáo bị tạm giam, tạm giữ thì việc hỏi cung, lấy lời khai chỉ có bị can với điều tra viên, ít khi có mặt của kiểm sát viên, Luật sư bào chữa. Đặc biệt là khi bị can mới bị bắt, bị tạm giữ thì việc kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra ở một số nơi còn sơ hở, lỏng lẻo, dễ đến dẫn đến hành vi bức cung, dùng nhục hình, tiêu cực, làm sai lệch hồ sơ vụ án. Trường hợp kiểm sát viên thực hiện hoạt động kiểm sát điều tra không thực hiện hết trách nhiệm của mình hoặc cấu kết với cán bộ điều tra thì những hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp rất dễ xảy ra, khi đó bị can, bị cáo không có cơ hội được bảo vệ... Do đó, nếu Luật sư có mặt ngay từ giai đoạn điều tra thì sẽ hạn chế được tình trạng tiêu cực, bức cung, nhục hình, mớm cung,... xảy ra. Luật sư ngoài tính chất trợ giúp, hướng dẫn cho thân chủ của mình còn có khả năng theo dõi, giám sát trình tự tố tụng. Qua đó, bên cạnh việc giúp thân chủ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp còn giúp Cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện ra những sai phạm, tiêu cực để kịp thời xử lý, hoàn thiện bộ máy tố tụng. Mặt khác, việc xác định sự thật của vụ án được Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Luật sư trong quá trình thực hiện chức năng, trách nhiệm của mình còn có vai trò giúp cơ quan tiến hành tố tụng bổ sung chứng cứ (gỡ tội), tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Sau khi có cáo trạng của Viện kiểm sát và chuyển sang giai đoạn truy tố, trường hợp không đồng ý với một phần hoặc toàn bộ cáo trạng và có các căn cứ để cho rằng vụ án chưa được làm rõ. Luật sư có quyền kiến nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng như đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng thu thập bổ sung, đánh giá, xem xét lại các chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
Trong giai đoạn xét xử vụ án, Luật sư sẽ tiến hành phân tích, giải thích những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án mà Luật sư cho rằng có ý nghĩa trong việc tìm ra sự thật khách quan hoặc gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Luật sư được tham gia quá trình xét hỏi, tranh tụng, đưa ra những lập luận, lý lẽ dựa trên những chứng cứ thu thập được cũng như trên cơ sở quy định của pháp luật. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thẩm quyền và vị thế của Luật sư tranh tụng tại phiên tòa được nâng cao, Luật sư có quyền bình đẳng với cơ quan tiến hành tố tụng khác: “Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án”, đây là điểm mới so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Trong các phiên Tòa có Luật sư, vụ án sẽ được nhìn nhận dưới góc độ đa chiều, khách quan và mang tính chất phản biện nhiều hơn, tránh cái nhìn phiến diện một chiều của cơ quan tố tụng. Đây là yếu tố quan trọng giúp Hội đồng xét xử đưa ra những phán quyết đúng đắn, công tâm, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tránh tình trạng oan sai và tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án.
Cũng cần phải nói thêm rằng, theo quy định của pháp luật hiện hành, Người bào chữa không chỉ có Luật sư, mà còn có thể là người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý. Thực tế, vẫn có nhiều quan niệm cho rằng không cần thiết phải có Luật sư bào chữa trong phiên Tòa, hay coi nhẹ vai trò của Luật sư trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, một điểm khác biệt lớn đó là hoạt động bào chữa của Luật sư là hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao. Bởi Luật sư là những người được đào tạo chính quy, có chuyên môn pháp lý cao, có kinh nghiệm thực tiễn sâu rộng trong các lĩnh vực xã hội và thực tiễn giải quyết vụ án. Theo Điều 2 Luật Luật sư sửa đổi bổ sung năm 2012: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”.Tiêu chuẩn Luật sư được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề Luật sư thì có thể trở thành Luật sư. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 muốn được hành nghề Luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư”. Vì vậy, trong một vụ án mà có người bào chữa là Luật sư, thì quá trình tố tụng sẽ chặt chẽ, quyền và lợi ích của bị can, bị cáo sẽ được đảm bảo ở mức cao hơn.
Ngoài vai trò đại diện cho thân chủ thực hiện quyền bào chữa, Luật sư còn có vai trò bảo vệ pháp chế, công bằng xã hội. Hay nói cách khác, sự có mặt của Luật sư bào chữa trong một vụ án hình sự giúp cân bằng cán cân công lý: giữa bên được trao quyền lực Nhà nước để thực hiện việc buộc tội, bảo vệ pháp luật và bên bị buộc tội. Quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng và Luật sư trong mô hình tố tụng ở Việt Nam không chỉ là quan hệ đối lập mà còn là quan hệ bổ trợ cho nhau nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, ngoài việc thực hiện quyền thì người bào chữa còn có các nghĩa vụ sau: Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan; tôn trọng sự thật; Không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; Trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 01 Điều 76 của Bộ luật này thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW, Hiến pháp 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì rất nhiều hạt nhân hợp lý trong mô hình tố tụng tranh tụng đã được vận dụng vào mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam để góp phần giải quyết các vụ án một cách nhanh chóng, khách quan và dân chủ hơn như: Nguyên tắc tranh tụng; Nghĩa vụ chứng minh tội phạm; Nguyên tắc công bằng; Biểu hiện của quyền im lặng... đặc biệt là việc nâng cao và phát huy rõ nét vai trò, vị thế của Luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự. Tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự, Luật sư có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Trong cả mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng xét hỏi (thẩm vấn) đều tồn tại những ưu điểm và nhược điểm, vai trò bào chữa của Luật sư cũng được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Nhưng cho dù là ở mô hình tố tụng nào thì vai trò của Luật sư luôn được nhìn nhận dưới nhiều góc độ: ở góc độ sự nghiệp (vai trò đối với bị can, bị cáo; vai trò đối với cơ quan tiến hành tụng) và ở góc độ xã hội (vai trò đối với nền pháp chế, công bằng và tiến bộ của xã hội).
[1] Viện ngôn ngữ học, 2013, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.133. [2] Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 29-30. [3] Hoàng Thị Sơn (2000), Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học số 05. [4] Đỗ Xuân Toản (2018), Bảo đảm Quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự. Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. [5] Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. [6] Ths. Ngô Thị Ngọc Vân (2015). Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng.Tạp chí Nghề Luật số 5, năm 2015. [7] Ths. Ngô Thị Ngọc Vân, Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng, Tạp chí Nghề Luật số 5, năm 2015. [8] Luật sư Nguyễn Hồng Hà (2018), Đảm bảo quyền công dân trong giai đoạn giải quyết tin báo tội phạm. Báo Khánh Hòa online, truy cập ngày 25/02/2020 từ https://baokhanhhoa.vn/phap-luat/201810/dam-bao-quyen-cong-dan-trong-giai-doan-giai-quyet-tin-bao-toi-pham-8094076/ |
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Viện ngôn ngữ học (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.133. 2. Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm Quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân. Hà Nội, tr 29-30. 3. Hoàng Thị Sơn (2000), Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.Tạp chí Luật học số 05. 4. Đỗ Xuân Toản (2018), Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự. Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 5. Ths. Ngô Thị Ngọc Vân, Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng.Tạp chí Nghề Luật số 5, năm 2015. 6. Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2003. 7. Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. 8. Luật sư Nguyễn Hồng Hà (2018), Đảm bảo quyền công dân trong giai đoạn giải quyết tin báo tội phạm. Báo Khánh Hòa online, truy cập ngày 25/02/2020 từ |
Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp
Thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ trong tố tụng dân sự