/ Kinh nghiệm - Thực tiễn
/ Vai trò của Luật sư trong hoạt động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp 2013

Vai trò của Luật sư trong hoạt động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp 2013

27/09/2021 16:18 |

(LSVN) - Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bình đẳng, công bằng trong hoạt động tư pháp, trong đó có quyền bào chữa được bảo đảm. Bài viết phân tích các quy định của pháp luật về quyền bào chữa của người bị buộc tội và thực trạng vai trò của người Luật sư trong việc bào chữa cho người bị buộc tội. Từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Luật sư trong hoạt động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.

Ảnh minh họa.

Đặt vấn đề

Cải cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh có phương thức tổ chức, hoạt động khoa học, hiện đại góp phần quan trọng vào việc giữ gìn trật tự, kỷ cương phép nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền của tòa án, đổi mới tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó có tổ chức Luật sư. Như vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động Luật sư là một trong những nội dung của cải cách tư pháp và có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động tư pháp. Cải cách tổ chức và hoạt động Luật sư phải được đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp nói riêng và trong tổng thể cải cách bộ máy nhà nước nói chung.

Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là nơi trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và bào chữa, TAND đưa ra phán xét một người có tội hay không có tội. Do vậy, một phán xét chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, mặt khác từ phía hoạt động tích cực của luật sư với vai trò là người bào chữa cho người bị buộc tội và góp phần bảo vệ công lý. Hoạt động của Luật sư là hoạt động bổ trợ tư pháp và có mối liên hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp.

Quyền bào chữa là một quyền đặc biệt, vì nó không phải là quyền của mỗi người nói chung, mà chỉ là quyền của riêng người bị buộc tội. Ý nghĩa của quyền bào chữa không chỉ để bảo vệ lợi ích của người bị buộc tội mà còn để nâng cao uy tín của hoạt động xét xử. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được bảo đảm trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Quyền bào chữa của người bị buộc tội gắn liền với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong việc bảo đảm cho quyền đó được thực hiện.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo - ngoài việc bị can, bị cáo thực hiện các quyền của mình còn hoạt động của những người tiến hành và người tham gia tố tụng, trong đó có người bào chữa để bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo với mục đích giải quyết đúng đắn vụ án và ra bản án hợp pháp và có căn cứ. Hiến pháp năm 2013 quy định rất rõ quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm (khoản 7 Điều 103), còn người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (người bị buộc tội) có quyền bào chữa: quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (khoản 4 Điều 31).

Như vậy, vấn đề đặt ra là cần cụ thể hóa Điều 31 và 103 của Hiến pháp năm 2013 như thế nào về quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Ai có quyền bào chữa và ai được bảo đảm quyền bào chữa?

Những quy định này của Hiến pháp được phản ánh tại Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể như sau:

“Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.

Thực trạng vai trò của Luật sư trong hoạt động tư pháp

Về quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong hoạt động tư pháp

Chế định Luật sư đã được quy định tương đối cụ thể trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Luật sư trong tố tụng hình sự có vai trò tích cực trong việc bào chữa cho người bị buộc tội thông qua việc thực hiện chức năng tố tụng hình sự của mình một cách đầy đủ. Sự tham gia của Luật sư là một trong những bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội.

Tuy nhiên, do nhận thức chưa thật đầy đủ và do chưa có sự hướng dẫn cụ thể, đồng bộ, thống nhất dẫn đến việc luật sư tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự chưa hiệu quả. Một số quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự còn mang tính hình thức hoặc khó thực hiện hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất. Cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự theo hướng dân chủ hóa hoạt động tố tụng, phải xem việc tham gia của Luật sư vào quá trình tố tụng hình sự là sự giám sát tốt nhất đối với các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Bên cạnh việc làm rõ chức năng buộc tội, chức năng xét xử thì cần phải chú ý đến chức năng bào chữa, trong đó có vai trò của Luật sư.

Sự tham gia của Luật sư trong tố tụng hình sự không chỉ giúp người bị buộc tội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của Luật sư chưa được nhìn nhận đúng và chưa thực sự bảo đảm theo yêu cầu của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, Luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, thậm chí còn sớm hơn là từ khi có quyết định tạm giữ. Nhưng trên thực tế, tỉ lệ các vụ án Luật sư được tham gia từ giai đoạn điều tra còn quá thấp so với tổng số vụ án hình sự bị khởi tố, trong đó có cả những vụ án theo quy định của pháp luật, sự tham gia của Luật sư là bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Về vấn đề này có nhiều nguyên nhân, là do người bị buộc tội không biết mình có quyền mời Luật sư hoặc biết nhưng vì có khó khăn về tài chính nên không thể thuê Luật sư. Bên cạnh đó còn có một nguyên nhân là do cơ quan tiến hành tố tụng chưa tạo điều kiện để Luật sư thực hiện đầy đủ chức năng tố tụng của mình, một số người tiến hành tố tụng chưa ủng hộ việc Luật sư được tham gia tố tụng. Trong một số trường hợp, sự không ủng hộ này được thể hiện bằng cách khuyên người bị buộc tội không nên mời Luật sư mà tốt nhất là khai báo trung thực để được hưởng khoan hồng. Đối với người bị buộc tội kém hiểu biết pháp luật, lại ở trong tình trạng tạm giữ, tạm giam, do tâm lý bất ổn, lo lắng, vì vậy thường nghe theo lời khuyên nói trên là điều thường có thể xảy ra.

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là nguyên tắc dân chủ trong tố tụng hình sự, vì vậy, việc mở rộng sự tham gia của Luật sư trong tố tụng hình sự, cho phép Luật sư tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ là cần thiết. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội cần thực hiện theo hướng mở rộng quyền của của người bị buộc tội và cho phép Luật sư tham gia sớm hơn và trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự, đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của Luật sư.

Theo chúng tôi, đã đến lúc các cơ quan có thẩm quyền như TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp cần sớm xây dựng và ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn thống nhất về mặt nhận thức vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự, cũng như bảo đảm cho luật sư thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đã được pháp luật quy định.

Về vai trò của luật sư trong tranh tụng

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”; “việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư... tranh luận dân chủ tại phiên tòa”.

Vấn đề đặt ra ở đây là cần hiểu và nhận thức đúng về “tranh tụng”. Tranh tụng được hiểu là hình thức tố tụng, thủ tục xét xử vụ án hay là một nguyên tắc trong tố tụng nói chung hay chỉ trong phiên tòa xét xử hình sự nói riêng. Đây là những vấn đề đang còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau.

Trong những năm gần đây, thuật ngữ tranh tụng mới được nhắc đến trong các tài liệu, sách báo pháp lý để phân biệt giữa Luật sư chuyên tham gia bào chữa, biện hộ trước tòa (barrister) và Luật sư chuyên làm tư vấn pháp luật (solicitor); hoặc để phân biệt giữa hình thức tố tụng tranh tụng (advesery system) ở các nước theo hệ thống thông luật và hình thức tố tụng thẩm vấn, xét hỏi (inquisition system) ở các nước theo hệ thống Luật dân sự. Ở các nước theo hệ thống thông luật, trong một phiên tòa hình sự, vị Thẩm phán đóng vai trò như một vị trọng tài trong một “trận đấu” giữa một bên là Công tố viên và bên kia là Luật sư bào chữa. Trong tay Thẩm phán không có hồ sơ vụ án mà nó nằm ở vị Công tố và Luật sư Trong phiên tòa, vị Thẩm phán hầu như không tham gia vào việc thẩm vấn, xét hỏi. Các Luật sư, Công tố viên là những người chủ yếu tham gia vào việc thẩm vấn, xét hỏi nhân chứng, nghiên cứu chứng cứ và tranh luận với nhau. Nhiệm vụ của thẩm phán là duy trì trật tự phiên tòa, điều khiển sự tranh luận giữa Công tố và Luật sư. Như vậy, trong một phiên tòa hình sự ở các nước theo hệ thống thông luật thì ba chức năng tố tụng là buộc tội, bào chữa và xét xử được phân định rất rõ cho Công tố viên, Luật sư và Tòa án.

Ở các nước theo hệ thống luật dân sự, các vị Thẩm phán xuất hiện trong phiên tòa hình sự thường với những tập hồ sơ dầy cộm. Họ là những người nắm tương đối rõ về vụ án, bởi vì họ được nghiên cứu trước. Trong phiên tòa họ là người đóng vai trò quan trọng và tích cực trong việc thẩm vấn, xét hỏi bị cáo, nhân chứng và nghiên cứu các chứng cứ. Thẩm phán ở các nước theo hệ thống thông luật có vai trò thụ động bao nhiêu trong phiên tòa hình sự thì thẩm phán ở các nước theo hệ thống luật dân sự lại có vai trò tích cực bấy nhiêu và đôi khi họ làm thay cả phần việc của công tố viên. Các luật sư ở các nước theo hệ thống luật dân sự phải làm việc rất ít, vai trò của họ rất lu mờ. Họ có rất ít điều kiện để tranh luận với Công tố viên và chỉ được bày tỏ quan điểm của mình trong bài bào chữa chỉ khi phiên tòa gần kết thúc.

Sau khi có Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị thì vấn đề tranh tụng đặc biệt được các nhà lý luận và những người làm công tác thực tiễn quan tâm. Trên sách báo pháp lý đã đăng tải một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cách hiểu và nhận thức thống nhất về tranh tụng.

Tranh tụng là một thuật ngữ cũ được dùng. Tranh tụng có thể được hiểu là sự tranh giành, kiện cáo nhau và sự tranh giành kiện cáo này cần có sự phân xử của người thứ ba. Thuật ngữ tranh tụng đã được sử dụng và quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và cụ thể là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Theo đó, Kiểm sát viên và Luật sư đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh luận dân chủ trước tòa. Bản án được tòa án tuyên trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ, công khai tại phiên tòa. Nội dung cơ bản của tranh tụng là bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, phân định rõ ba chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự.

Trên thực tế, nhiều vấn đề luật sư đưa ra nhưng chưa được đại diện VKS tranh luận hoặc tranh luận chưa đầy đủ. Một số Luật sư cho rằng, việc kiểm sát viên không tranh luận từng vấn đề mà Luật sư đưa ra hoặc nếu có thì nói là “tôi giữ nguyên quan điểm như cáo trạng”. VKS giữ quyền công tố cần tranh luận từng vấn đề, trả lời các câu hỏi mà Luật sư đưa ra, có như vậy mới làm rõ được bị cáo có tội hoặc không có tội, có tội thì ở mức độ nào.

Pháp luật tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đại diện VKS tại phiên tòa hỏi là chính và hội đồng xét xử cần đóng vai trò trọng tài, phân xử sau khi đã nghe hai bên buộc tội và bào chữa tranh luận với nhau. Vậy cần phải tăng liều lượng tranh luận của đại diện viện kiểm sát lên nhiều hơn nữa. Thông qua tranh tụng tại phiên tòa, các vấn đề mới được cọ xát và được làm sáng tỏ. Hội đồng xét xử đóng vai trò tích cực trong việc điều khiển phiên tòa, có tác động để quá trình tranh tụng đạt được kết quả cao. VKS cần làm đầy đủ trách nhiệm của mình là truy tố và chứng minh tội của bị cáo. Tuy nhiên, muốn bảo đảm tranh tụng dân chủ, công khai trong phiên tòa hình sự, cũng như nâng cao vai trò của Luật sư trong hoạt động tranh tụng theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị thì cần có bước đi thích hợp. Để thực hiện những nhiệm vụ đã được đề ra trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đòi hỏi phải bổ sung, hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp và Luật sư theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ các từng cơ quan, đồng thời xác định rõ vai trò của Luật sư trong hoạt động tư pháp.

Về phát triển đội ngũ luật sư có trình độ chuyên môn cao, đạo đức nghề nghiệp tốt

Nghề Luật sư có nhiều đặc thù và được điều chỉnh bằng những quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Ở các nước trên thế giới pháp luật đều quy định quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư. Việc quản lý nghề Luật sư ở mỗi nước một khác và phụ thuộc vào tính truyền thống của từng nước mà không theo một khuôn mẫu nhất định. Vấn đề tự quản đối với nghề Luật sư đến đâu là do quy định của từng nước. Tuy nhiên, nhà nước vẫn cần quản lý những khâu quan trọng như ban hành các văn bản pháp luật về hành nghề Luật sư, quy định chương trình đào tạo và công nhận Luật sư, cho phép thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư và các hình thức hành nghề Luật sư… Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư chủ yếu giám sát luật sư về mặt đạo đức nghề nghiệp. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư được xem như là “thanh kiếm” để xử lý những trường hợp luật sư vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vừa là “lá chắn” bảo vệ cho luật sư tránh khỏi sự can thiệp, áp lực từ phía người thứ ba khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp.

Luật sư là một nghề dựa trên sự hiểu biết và áp dụng pháp luật liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước, đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Chính vì vậy, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý, tạo điều kiện và khuyến khích Luật sư trong hành nghề. Việc quản lý hành nghề Luật sư không hoàn toàn giao phó cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư mà cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ từ phía nhà nước. Nhà nước bảo đảm cho luật sư hành nghề đúng pháp luật, người hành nghề luật sư phải hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và những người có đủ tiêu chuẩn đều có quyền hành nghề Luật sư. Thực tiễn ở Việt Nam những năm qua cho thấy chưa có sự phân định rõ giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư.

Cùng với việc nâng cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư, trong giai đoạn hiện nay, để khuyến khích phát triển nghề luật sư ở Việt Nam cần đổi mới và tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với hành nghề luật sư. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư cần tập trung vào việc giám sát luật sư về mặt đạo đức nghề nghiệp và giúp đỡ, bảo vệ luật sư trong khi hành nghề. Có như vậy mới tạo điều kiện phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng và phát huy vai trò của họ trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để phát triển đội ngũ Luật sư ở Việt nam hiện nay đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì không thể thiếu được vai trò quản lý của Nhà nước đối với tổ chức và hoạt động luật sư. Là cơ quan quản lý Luật sư, Bộ Tư pháp có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho nghề Luật sư phát triển, đồng thời chú trọng hơn nữa đến việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho luật sư và coi trọng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đề cao chữ đức, chữ tâm trong hoạt động nghề nghiệp Luật sư.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Luật sư trong hoạt động tư pháp, ngoài việc không ngừng hoàn thiện chế định luật sư, nhận thức đúng đắn về vai trò của luật sư và trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của luật sư thì cần phải xây dựng đội ngũ Luật sư có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt.

Kiến nghị

Để nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự có liên quan đến hoạt động của Luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã được pháp luật tố tụng hình sự quy định.

Thứ hai, bảo đảm sự tranh tụng dân chủ, công khai của Luật sư tại phiên tòa, Luật sư là một bên tham gia tranh tụng. Bộ luật Tố tụng Hình sự cần ghi nhận đầy đủ nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong hoạt động xét xử.

Thứ ba, nâng cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư và tăng cường quản lý nhà nước đối với hành nghề Luật sư nhằm đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy vai trò của họ trong hoạt động tư pháp.           

Tài liệu tham khảo

1) Hiến pháp năm 2013.

2) Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.

3) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

4) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

5) Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020.

Tiến sĩ NGUYỄN VĂN TUÂN 

Tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp

Lê Minh Hoàng