Ảnh minh họa.
1. Những nền tảng lý luận và thực tiễn về tranh tụng trong tố tụng hình sự
1.1. Những nền tảng lý luận về tranh tụng trong tố tụng hình sự
Vấn đề tranh tụng không phải là vấn đề mới, nhưng cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Người ta thường đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, kiểu tố tụng tranh tụng, mô hình tranh tụng, hệ thống tranh tụng... lý giải vấn đề tranh tụng từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra một khái niệm cụ thể tranh tụng là gì. Theo từ gốc tranh tụng trong tiếng Anh là “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Như vậy, về bản chất tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà giai đoạn đương đầu tại Tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm, là chính.
Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa hai bên tại phiên tòa, mà hiểu tranh tụng diễn ra như một quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt để “cạnh tranh” nhau để “chống” lại nhau. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng để thuyết phục các thành viên HĐXX tin rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện pháp, lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên công tố đưa ra. Phiên tòa tranh tụng thật sự là một “chiến trường” theo đúng nghĩa của nó khi mà kết thúc phiên tòa, chỉ có một bên giành được phần thắng.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi ở nước ta trong quá trình nghiên cứu và lập pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự là vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra chủ trương “Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”.
Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh việc “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Trong nội dung cải cách tư pháp, tranh tụng đang là một trong những vấn đề thường xuyên được đề cập đến và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành thì vấn đề tranh tụng đã thực sự trở thành vấn đề thời sự, không chỉ được tranh luận tại các hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Vậy thế nào là tranh tụng và vấn đề tranh tụng được đề cập trong Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị cần được hiểu như thế nào cho đúng?. Có ý kiến cho rằng, cần xác định tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam, có ý kiến đề nghị chuyển mô hình tố tụng hình sự ở nước ta sang mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng, yêu cầu tăng cường tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị không nên hiểu là yêu cầu thay đổi hệ thống tố tụng (từ hệ thống tố tụng thẩm vấn sang hệ thống hệ thống tố tụng tranh tụng), mà cần phải đựơc hiểu là yêu cầu cần phải tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Bộ luật Tố tụng hình sự nước ta cần ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự để phân định rõ chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử giữa các bên và Tòa án. Mặt khác, trong Bộ luật Tố tụng hình sự cũng cần quy định đầy đủ và cụ thể các điều kiện pháp lý cần thiết để đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Hình sự không đồng nhất với việc xây dựng hệ thống tố tụng ở nước ta theo mô hình tố tụng tranh tụng.
Sau Nghị quyết 49-NQ/TW thì Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận tại Điều 103 là “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Như vậy, “tranh tụng” là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng. Điều 26, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự: “Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”.
1.2. Những nền tảng thực tiễn về tranh tụng trong tố tụng hình sự
Sau hơn 10 năm áp dụng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng để các chủ thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình, góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới trong những năm vừa qua.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã có không ít những bất cập gây cản trở cho các chủ thể tố tụng hình sự, gây ra những khó khăn đối với những người tham gia tố tụng, trong đó có đội ngũ Luật sư. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW và tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Hoạt động tranh tụng của Luật sư giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự đang gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy hết vai trò và vị trí của Luật sư trong với vai trò phản biện, bào chữa.
Với các quy định về trách nhiệm bồi thường của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đối với các vụ án oan sai theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khiến cho nhiều chỗ, nhiều nơi nảy sinh hiện tượng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có tâm lý không muốn nhận sai lầm nếu đã khởi tố không đúng, dẫn đến việc khó khăn cho việc đình chỉ vụ án. Vì vậy, chú trọng vấn đề tranh tụng trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự (tiền tố tụng) sẽ góp phần giảm thiểu tỉ lệ án oan sai, hạn chế việc khởi tố thiếu căn cứ ngay từ giai đoạn đầu của quy trình tố tụng.
Việc tham gia của Luật sư với vai trò là người bào chữa trong vụ án hình sự từ khi nghi phạm bị bắt, bị tạm giam, bị khởi tố… như các quy định pháp luật hiện nay vẫn chưa đảm bảo cân bằng địa vị tố tụng của bên buộc tội và bên gỡ tội, đó là một trong các nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án oan, sai xảy ra, trong đó có thể kể đến một số vụ như: Vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang bị kết án tù chung thân về tội "Giết người" đã được minh oan sau 10 năm chịu hình phạt tù; Vụ ông Trần Văn Chiến ở Tiền Giang bị kết án tù chung thân về tội "Giết người" được minh oan sau hơn 16 năm chấp hành hình phạt tù; Vụ anh Nguyễn Minh Hùng ở Tây Ninh bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử 02 lần và đều tuyên phạt mức án tử hình về hành vi "Vận chuyển, buôn bán trái phép chất ma túy", được minh oan sau hơn 04 năm ròng rã kêu cứu; Vụ ông Bùi Minh Hải ở Đồng Nai bị VKSND tỉnh Đồng Nai đề nghị mức án tử hình và bị TAND tỉnh Đồng Nai tuyên phạt tù chung thân về các tội "Giết người", "Cướp tài sản", "Hiếp dâm" được minh oan sau 16 tháng bị giam giữ. Đặc biệt, Vụ án "vườn điều" ở Bình Thuận được xem là một trong những vụ án oan sai lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam bởi có đến 09 người trong một gia đình rơi vào vòng lao lý, vụ án được đưa ra xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp nhưng đều bị hủy án do có nhiều tình tiết chưa rõ ràng. Việc điều tra, xét xử vụ án được kéo dài 12 năm nhưng vẫn không tìm ra hung thủ. Năm 2006, Cơ quan điều tra xác định các bị cáo không có tội và trả tự do tại tòa, đồng thời, các cơ quan tiến hành tố tụng đã công khai xin lỗi và bồi thường cho những người bị oan sai. Vụ 05 Công an dùng nhục hình ở Phú Yên; Vụ án oan với ông Huỳnh Văn Nén; Vụ án khởi tố chủ quán cà phê “Xin Chào” tại huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh; Mới đây là vụ án oan với ông Hàn Đức Long… cuối cùng đều đình chỉ, xin lỗi công khai và xử lý cán bộ có liên quan.
Trên đây là một số vụ án oan, sai có tính chất nghiêm trọng và phức tạp xảy ra trong thời gian qua. Ngoài các vụ án này, còn rất nhiều vụ án mà người bị điều tra, truy tố, xét xử, bị tạm giam, tạm giữ, bị phạt tù… không phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi chỉ là vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ dân sự, không có dấu hiệu tội phạm. Thực tiễn có nhiều trường hợp có dấu hiệu oan sai, Tòa án hủy án xử đi, xử lại nhiều lần, vụ án trở thành những “kỳ án” không biết tới khi nào mới có hồi kết… Tuy nhiên, việc kéo dài thời hạn tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng không nhận sai, cố tình gán tội cho bị can, bị cáo khiến bị can bị cáo nản lòng, nhắm mắt chấp nhận một tội danh hoặc một mức hình phạt nào đó để được “yên thân”. Điều đó cho thấy, pháp luật về tố tụng hình sự ở nước ta còn nhiều bất cập, việc thực thi các quy định của pháp luật trong quá trình trước khi khởi tố vụ án. Có nhiều trường hợp việc xác minh, giải quyết tin báo tố giác tội phạm chưa thật nghiêm túc, việc xác minh tin báo, tố giác tội phạm, xác định các căn cứ khởi tố còn nhiều thiếu sót dẫn đến oan sai, gây thiệt hại cho công dân.
Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là Bộ luật Tố tụng hình sự nói riêng cũng như pháp luật về tư pháp hình sự nói chung ở nước ta phải được sửa đổi, bổ sung thường xuyên, tạo hành lang pháp lý minh bạch hơn, khả thi hơn cho các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện quyền của mình, cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Nhận thức được vai trò của hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự, thực hiện tư tưởng, định hướng của Đảng trong Nghị quyết 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp nên khi sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì nhiều nguyên tắc mới đã được bổ sung trong tố tụng hình sự, trong đó có nguyên tắc tranh tụng quy định tại Điều 26 và thể hiện nội dung ở nhiều điều luật khác. Cùng với các nguyên tắc xác định sự thật, nguyên tắc chứng minh, nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định khác đảm bảo công bằng, bình đẳng, đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự thì nguyên tắc tranh tụng là một vấn đề mới, được đề cập khá nhiều trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với những nội dung sửa đổi, bổ sung đã tạo nền tảng cơ sở pháp lý, đảm bảo tốt hơn việc tranh tụng trong tố tụng vụ án hình sự.
2. Hoạt động tranh tụng của Luật sư trong giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm
Hoạt động tranh tụng của Luật sư trong giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm trong bài viết này, tác giả phân tích và quy chiếu theo những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, các quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trong tố tụng hình sự, Luật sư tham gia vào nhiều giai đoạn của vụ án như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, có một giai đoạn trước khi khởi tố là giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm là một giai đoạn rất quan trọng, là giai đoạn xác định có đủ căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can hay không, nếu thiếu thận trọng thì có thể dẫn đến oan sai về sau. Thế nhưng ở giai đoạn này, sự tham gia của Luật sư lại còn rất mờ nhạt.
Trước đây Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần thiết phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKSND quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra” (Điều 36). Như vậy đối với quy định cũ, Luật sư chỉ được tham gia tranh tụng từ giai đoạn khởi tố bị can, điều này làm hạn chế các hoạt động tranh tụng của Luật sư và có trường hợp dẫn đến sự không khách quan trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng VKSND quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra” (Điều 58). “Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can” (Điều 59). Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã có sự thay đổi quy định về việc tham gia tranh tụng của Luật sư, theo đó Luật sư được tham gia tố tụng từ giai đoạn tạm giữ đối với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Tham gia tranh tụng từ giai đoạn này, nghĩa là Luật sư được tham gia tranh tụng sớm hơn, vai trò của Luật sư đã được ghi nhận nhiều hơn, đặc biệt tạo ra sự đối trọng giữa bên gỡ tội và các bên tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án, dẫn đến sự khách quan, minh bạch hơn trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án.
Bộ luật Tố hình sự 2015 đã có một số quy định ghi nhận sự tham gia tranh tụng của Luật sư giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự. Theo đó Luật sư có thể tham gia tranh tụng từ giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm. Điều 57, Bộ luật Tố hình sự 2015 quy định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền “tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình” (điểm e, khoản 1). Điều 58 quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền “tự bào chữa, nhờ người bào chữa” (điểm g, khoản 1). Nguời bị tạm giữ có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa (điểm d, khoản 2, Điều 59). Việc ghi nhận người bị tố giác, người bị kiến nghị, người bị tạm giữ,... có quyền nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, nhờ người bào chữa đã nâng cao vai trò của Luật sư trong giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, giai đoạn trước khởi tố, tạo tiền đề quan trọng bước đầu xác định sự thật khách quan, bảo đảm sự công bằng pháp luật của các bên tham gia tố tụng.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có thể là Luật sư, và có quyền:
- Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
- Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
- Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Ngoài ra, Luật sư với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có nghĩa vụ sử sụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giúp người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Giai đoạn trước khởi tố vụ án, khởi tố bị can có thể xảy ra một số xu hướng như sau:
- Cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng là người nắm quyền chủ động trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để buộc tội, không có người bào chữa. Nếu người xác minh tin báo chủ quan ý chí, bỏ qua nguyên tắc suy đoán vô tội thì dễ dẫn đến khởi tố oan sai.
- Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố là người yếu thế, bị động, thường có tâm lý hoang mang, lo lắng, không làm chủ được trong những buổi làm việc với cơ quan tố tụng nên rất cần có người tư vấn pháp lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ ngay từ giai đoạn này.
- Luật sư đóng vai trò tư vấn pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, có trách nhiệm giải thích cho họ về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý cho họ để từ đó giúp người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình tham gia tố tụng đúng quy định của pháp luật và giám sát toàn bộ quá trình kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, tránh bị bức cung, ép cung, để minh oan cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Trong giai đoạn này, việc đầu tiên mà Luật sư phải làm là thực hiện thủ tục để được tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Tuy nhiên, trên thực tế thì Luật sư thường bị gây khó, phiền hà từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, một phần do nhận thức chưa thấu đáo của cơ quan tố tụng, một phần do chủ ý của một số cán bộ tố tụng cản trở sự “vào cuộc” của Luật sư.
Sau khi hoàn tất thủ tục tham gia tố tụng, chính thức có tư cách pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố thì Luật sư cần gặp gỡ, làm việc với cơ quan tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố. Luật sư tiến hành gặp gỡ, tham gia lấy lời khai của người tố giác, người bị tiến nghị khởi tố. Công việc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan của việc kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, hạn chế được các vi phạm pháp luật có thể xảy ra như: Ép cung, mớm cung, bức cung, làm sai lệch hồ sơ vụ án…
Ngoài ra, việc Luật sư bào chữa tham gia vào các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin, vật chứng, trình bày ý kiến, đánh giá về vật chứng tài liệu, có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố cũng là một hoạt động cần thiết và có ý nghĩa. Thông qua các hoạt động này, Luật sư có thể phát hiện được những tình tiết có ý nghĩa minh oan, ngăn ngừa việc khởi tố không có căn cứ cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố trong trường hợp họ vô tội, làm hạn chế tình trạng oan sai ngay từ giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố trong tố tụng hình sự.
Tuy là giai đoạn tiền đề diễn ra trước giai đoạn khởi tố của tố tụng hình sự nhưng ngay từ công việc kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, Luật sư đã thực hiện được những hoạt động tranh tụng của mình, có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi của cơ quan tham gia tố tụng, bước đầu tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ và định hướng việc bào chữa cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nếu họ bị khởi tố sau này nhằm bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp cho họ.
3. Những khó khăn - thách thức của Luật sư khi tham gia tranh tụng trong giai đoạn xác minh, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
Trên thực tế, thường xảy ra những khó khăn, ảnh hưởng đến hoạt động tranh tụng của Luật sư trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án như sau:
- Thiếu cơ sở pháp lý ghi nhận hoạt động tranh tụng của Luật sư giai đoạn trước khởi tố. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sẽ là một bước tiến mới cho hoạt động tranh tụng của Luật sư trong giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, các quy định này vẫn chưa thể phát huy hết hiệu quả của nó khi trại tạm giam, nhà tạm giữ vẫn do cơ quan điều tra nắm giữ. Chưa có quy định là mọi buổi làm việc của cán bộ điều tra với người bị tố cáo phải có Kiểm sát viên hoặc có Luật sư tham gia, chứng kiến khiến những quy định mới vẫn chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện trên thực tế;
- Nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế, đặc biệt là quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Thêm vào đó là thói quen pháp lý ít sử dụng dịch vụ bào chữa của Luật sư, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý chưa đáp ứng được yêu cầu khiến chính bản thân những người bị tố cáo, bị kiến nghị khởi tố còn coi nhẹ giá trị, vai trò của Luật sư trong giai đoạn này cũng như trong quá trình tố tụng;
- Tâm lý chung của người tiến hành tố tụng là ngại va chạm với Luật sư, không muốn để Luật sư tham gia tranh tụng từ giai đoạn này nên có thể có những tác động tâm lý tiêu cực với người bị tố cáo, người bị kiến nghị khởi tố khiến họ không nhờ Luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi cho mình ngay từ giai đoạn đầu này;
- Chưa có những cơ chế rõ ràng, các chế tài cụ thể cho việc xử lý những người tiến hành tố tụng vi phạm quyền được bào chữa, bảo vệ quyền lợi của người bị tố cáo, người bị kiến nghị khởi tố.
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng của Luật sư trong giai đoạn xác minh tin báo, tố giác tội phạm
Để khắc phục những hạn chế trong giai đoạn xác minh tin báo, tố giác tội phạm, phát huy vai trò của Luật sư bào chữa trong giai đoạn này, theo tác giả, cần thực hiện những giải pháp sau:
- Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động tranh tụng của Luật sư giai đoạn trước khởi tố, tạo hành lang pháp lý để Luật sư phát huy vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Luật Luật sư cũng cần sửa đổi, bổ sung cho thích ứng kịp thời với các bộ luật mới được ban hành, bảo đảm nâng cao vai trò tranh tụng của Luật sư trong giai đoạn trước khởi tố nói riêng và các giai đoạn khác nói chung, góp phần làm minh bạch hoạt động tố tụng, phòng ngừa oan sai, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Việt Nam hiện nay.
- Thiết lập các cơ chế, đảm bảo để Luật sư được tham gia vào giai đoạn trước khởi tố. Cơ quan tố tụng phải coi việc có mặt của Luật sư ngay từ đầu chính là điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, xác minh tin báo tố giác, kiến nghị khởi tố, đảm bảo khách quan, toàn diện và trực tiếp vào việc xác lập chứng cứ của vụ án, giúp cho công tác kiểm tra, xác minh đạt hiệu quả cao.
- Tích cực tuyên truyền, vận động người dân tiếp cận với những quy định mới của pháp luật để họ nắm được cơ bản các quyền và nghĩa vụ của công dân, trong đó có quyền bào chữa, quyền được nhờ Luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự.
- Tăng cường số lượng đi đôi với nâng cao chất lượng Luật sư. Nâng cao trình độ nghiệp vụ, kiến thức, kỹ năng hành nghề Luật sư, tăng cường số lượng Luật sư để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả trong tranh tụng, gây dựng uy tín trong nhân dân của đội ngũ Luật sư Việt Nam.
Giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố có thể coi như tiền đề của vụ án về sau là bước đi đầu tiên rất quan trọng đối với quá trình tiến hành tố tụng. Do đó hoạt động tranh tụng của Luật sư góp phần đưa sự việc đi theo đúng hướng khách quan của vụ án, giảm thiểu những vụ án oan sai về sau.
Tài liệu tham khảo: 1. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002, Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. 2. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 3. Lê Cảm (2003), Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự, Tạp chí luật học. 4. Đặng Văn Cường (2016), Hoạt động tranh tụng của Luật sư trong các vụ án hình sự tại Hà Nội, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 191 tháng 11&12/2016, tr.63-68&62. 5. Đặng Văn Cường (2017), Tác động của hoạt động xét xử lưu động vụ án hình sự đối với bị cáo và cộng đồng xã hội, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 131 tháng 1/2017, tr.55-60. 6. Nguyễn Thái Phúc (2003), Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9, tr.3-10. 7. Hoàng Văn Vĩnh (2004), Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 3, tr.46-49 |
Tiến sĩ, Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp Hà Nội, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện các quy định tại Điều 139 BLHS 2015