/ Trao đổi - Ý kiến
/ Vì sao cựu Bộ trưởng và cựu Thứ trưởng Bộ Công thương không bị tạm giam?

Vì sao cựu Bộ trưởng và cựu Thứ trưởng Bộ Công thương không bị tạm giam?

01/01/0001 00:00 |

(LSO) - Trường hợp khởi tố bị can thì người bị khởi tố có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể và tùy thuộc vào mỗi vụ án cụ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Ngày 10/7, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Vũ Huy Hoàng, cựu Bộ trưởng Bộ Công thương và bà Hồ Thị Kim Thoa, cựu Thứ trưởng Bộ Công thương để điều tra về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”.

Các quyết định và lệnh trên đã được Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn.

Tuy nhiên, theo thông tin thì dù bị khởi tố nhưng cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng và cựu Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa đều được cơ quan điều tra cho tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú mà không bị tạm giam hay áp dụng các biện pháp khác. Vậy liệu việc này có phù hợp với quy định của pháp luật không?

Ông Vũ Huy Hoàng, cựu Bộ trưởng Bộ Công thương và bà Hồ Thị Kim Thoa, cựu Thứ trưởng Bộ Công thương bị khởi tố.

Liên quan đến vấn đề này, Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường (Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp) cho rằng, trường hợp khởi tố bị can thì người bị khởi tố có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể và tùy thuộc vào mỗi vụ án cụ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Như vậy, nếu bị can nào bị khởi tố về tội danh mà khung hình phạt có thể trên 15 năm tù thì có thể sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam theo quy định của điều luật này.

Ngoài ra, điều luật này cũng quy định tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

- Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng hình sự có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện Kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện Kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện Kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.

Như vậy, trong trường hợp cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng bị khởi tố theo quy định tại khoản 2, Điều 219 Bộ luật Hình sự để điều tra về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” (gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước dưới 1.000.000.000 đồng) với mức hình phạt cao nhất lên đến 12 năm tù thì có thể sẽ không áp dụng hình thức tạm giam.

Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường – Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp.

"Tuy nhiên nếu vị này bị khởi tố, truy tố ở khung hình phạt theo khoản 3 của Điều luật này do gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước từ 1.000.000.000 đồng trở lên, với mức hình phạt có thể đối mặt lên đến 20 năm tù thì cơ quan điều tra có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với vị cựu Bộ trưởng này theo quy định pháp luật", Luật sư Cường nói.

Khi đã khởi tố bị can, nếu không áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam thì cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định tại Điều 123  Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể: Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.

Bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:

- Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép;

- Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

- Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;

- Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.

Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Như vậy theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng chứ không bắt buộc phải áp dụng đối với mọi trường hợp khi bị khởi tố, truy tố về các tội danh rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

Ngoài ra, khoản 4 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định: “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”.

"Vì vậy, khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì rất có thể cơ quan tố tụng cho rằng bị can trong vụ án này là “người già yếu, bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng” hoặc thiệt hại mà cơ quan tố tụng xác định trong vụ án này là chưa đến 1.000.000.000 đồng", Luật sư Cường nói.

Bên cạnh đó, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang cấm đi khỏi nơi cư trú và ngược lại theo quy định tại Điều 119 và Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu trên.

Ngoài ra, một điểm đáng chú ý của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là có biện pháp “Đặt tiền để đảm bảo” cho biện pháp ngăn chặn. Bởi vậy cũng có thể các bị can trong vụ án này thuộc trường hợp bị tạm giam nhưng do đã đặt một khoản tiền để đảm bảo áp dụng biện pháp ngăn chặn theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự nên đã không bị tạm giam.

Đây là quy định mới, có tính chất nhân văn để giảm bớt những thiệt hại không đáng có đối với bị can, bị cáo. Tuy nhiên cũng có nhiều quan điểm khác nhau về quy định này, có người cho rằng những người nghèo, người dân thường sẽ không có cơ hội áp dụng điều luật này và phải chấp nhận bị tạm giam.

Luật sư Cường cho rằng, vì điều luật này cũng đã được Quốc hội thông qua, đang có hiệu lực pháp luật nên các bị can trong vụ án này có thể vận dụng quy định của điều luật này để tránh trường hợp mình bị tạm giam trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Thủ tục đặt tiền để đảm bảo phải đúng quy định của pháp luật, số tiền đó phải nộp vào Cơ quan thi hành án.

"Vụ án này xử lý đối với những người có chức vụ quyền hạn, có hiểu biết về pháp luật, nên có thể họ đã vận dụng các quy định pháp luật này để đề nghị áp dụng. Tuy nhiên, trong thực tiễn tố tụng thì không phải ai cũng biết về quy định này, nhiều người còn có thể hiểu sai về nó. Bởi vậy, quy định này cũng cần được tuyên truyền phổ biến rộng rãi để tránh trường hợp bị can, bị cáo hoặc người nhà của họ hiểu lầm về quy định này dẫn đến câu chuyện tiêu cực trong quá trình tố tụng hình sự. Việc đặt tiền là phải trên cơ sở quy định pháp luật nêu trên, việc nộp tiền phải có biên lai và nộp cho cơ quan theo đúng quy định pháp luật', Luật sư nói.

Điều 122. Đặt tiền để bảo đảm
1. Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
2. Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
3. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
4. Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật này. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.
5. Người thân thích của bị can, bị cáo được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều này, nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Khi làm giấy cam đoan, người này được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến bị can, bị cáo.
6. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm.

THANH THANH

/can-cu-doi-lai-phan-dat-bi-lan-chiem-da-duoc-cap-gcnqsdd.html